RSS

Tag Archives: Pháp luật

Khi kẻ nô lệ dạy ta yêu nước

cxn

Đọc thêm nhé: Phải để Tầu nó chiếm Việt Nam mới làm sống lại lòng yêu nước ?

Không ai có thể đếm hết được những đầu bếp chuyên chế biến thức ăn cho cờ vàng, nhưng thợ giỏi thì không nhiều, cùng món “Quan hệ Việt-Trung” nhưng mỗi anh chế biến một kiểu, có anh chế biến để hạp khẩu vị con chiên, có anh thêm nếm cho nó hạp cái vị cay cú cờ vàng và thế là đủ để ăn khách, cũng món này nhưng có anh bị tổ trác, xào nấu nhạt nhẽo lại quá hưng phấn thêm nếm quá tay bởi vậy cứ thối um cả lên, mà ngay cả cờ vàng cực đoan thứ thiệt cũng không thể ngửi nổi và rồi cuối cùng thì quay ra cắn nhau – Vui đáo để!


Đọc bài viết “ Cách Đối Xữ Giữa Người Thắng Kẻ Thua Trong Cuộc Chiến” của Tác giả Phan Hoài Nam đăng lại trên kbchn.net tôi chợt nhớ cũng tác giả này từng có bài viết có ý rằng phải để cho Tàu nó đánh VN thì . . . . dân ta mới phục hồi lại lòng yêu nước. Lần này ông ta lại khuyên người Việt nên học yêu nước theo kiểu … Mỹ. Bó tay, chỉ có những người sùng Mỹ và rất hận CS mới có thể viết ra được như thế.

Viết lách lưu manh của dân chống cộng kiểu như PHN bao năm qua dù có che đậy thế nào chăng nữa cũng không thể dấu được cái đuôi cho thấy họ còn hận CS ghê lắm nên viết lách thế nào cũng phải đã giò lái anh CS một cái mới hả dạ. Vòng vo tam quốc tứ xứ thập phuơng xuyên tạc rồi cũng không nhịn được phải phang anh CS một cái mới ăn được cơm.

Mở đầu bài viết anh PHN này đã trình làng ngay cái đuôi mình . PHN viết :

“Ai cũng biết chỉ có lòng yêu nước mới có thể giúp cho dân tộc VN thoát ra khỏi bế tắc hiện nay và để được sống đúng với nhân phẩm con người. “

Anh ta cho rằng dân tộc VN dù đang độc lập thống nhất dù đang phát triển dù thoát khỏi đói nghèo được Liên hiệp Quốc đề cao, dù nhận được bao nhiêu lời ngợi khen của thế giới thì vẫn đang “ bế tắc “ và chẳng có nhân phẩm tí nào. ( Tất cả cũng chỉ vì CS đúng không ông PHN?)

Đối với PHN và những người đang hăng say chống cộng thì suy diễn này rất dễ hiểu. “Bế tắc” có nghĩa là dân Việt không dám làm cái cách mạng hoa lài hoa hồng như PHN và các anh cờ vàng mong đợi. Đúng ra là PHN và các anh cờ vàng quá bế tắc trong việc phát động người dân căm thù CS như mình, người dân không nổi dậy như các anh kỳ vọng thế là PHN úp cái “bế tắc “ ấy ngay lên đầu người dân và các anh đổ tại người dân không yêu nước cho nên CS mới mạnh, thế thôi, chẳng có gì lạ cả.

PHN viết:

“ Cũng vì lòng yêu nước mà từ đầu thế kỷ 18, đã có những phong trào trí thức người Nhật tìm cách thoát khỏi quỹ đạo văn hóa của người Trung Hoa” ….. “Sự khác biệt giữa đất nước chúng ta và nước Nhật cũng chính từ sự khác biệt về lòng yêu nước. Cùng là một nước ở Á Châu, diện tích, dân số, tài nguyên gần như nhau nhưng một nước thì giàu có và được cả thế giới kính nể, còn nước kia thì ngược lại…”

Viết như thế PHN hoặc là cố tình bôi nhọ dân tộc hoặc là không hiểu tí gì về văn hóa và lịch sử Việt Nam.

Chẳng lẽ PHN không biết dù có những tương đồng nhiều mặt nhưng sự khác biệt lớn nhất của nước ta với nước Nhật là khác biệt về lịch sử?

Không phải từ thế kỷ 18 ,mà từ khi lập quốc, và nhất là trong thời gian dài Bắc thuộc, dân tộc ta đã nỗ lực liên tục duy trì bản sắc riêng của mình để tránh nguy cơ bị Tàu nó đồng hóa. Ta có quyền tự hào rằng dân ta có tinh thần độc lập cao không thua kém bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Từ xa xưa phong tục nhuộm răng ăn trầu phổ biến trong xã hội phong kiến cũng vì mục đích tạo bản sắc độc lập riêng.

“Búi tó củ hành làm anh thiên hạ” đó là lời truyền miệng nhau trong dân gian cũng chỉ để tạo bản sắc khác hẳn với người Tàu. Về ngôn ngữ, dân tộc ta có ngôn ngữ riêng, lấy chữ nôm làm chữ viết riêng. Khi các nhà truyền đạo Ca tô theo chân đế quốc vào nước ta phiên âm ngôn ngữ việt ra ngôn ngữ la tinh dễ học để phục vụ cho mục đích truyền giáo thì dân ta không bỏ qua cơ hội dùng chữ này để mở mang dân trí và nó trở thành quốc ngữ hoàn toàn khác với người Tàu. Đó là tố chất thông minh sáng tạo và tinh thần học hỏi của người Việt, nó phát sinh từ lòng yêu nước, yêu dân tộc mà ra. Cả dân tộc Việt cùng nhau bảo tồn văn hóa chứ không phải chỉ có trí thức Nhật tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng Tàu như PHN ba hoa.

Tục nhuộm răng là một nét văn hóa độc đáo của dân ta để phân biệt với các tộc người khác và giữ gìn bản sắc dân tộc. Hầu như tất cả người dân Việt Nam từ kẻ nghèo cho đến người giàu, từ giai cấp nông dân cho đến giới quan lại, điền chủ, hoàng thân quốc thích, vua chúa ai ai cũng nhuộm răng.Trong bài hịch củavua Quang Trung khi kéo quân ra Bắc đánh giặc Thanh vào năm 1789 có câu liên quan đến tục nhuộm răng vì đây là một tập tục quan trọng trong văn hóa người Việt.

Đánh cho để dài tóc

Đánh cho để đen răng

Đánh cho nó chích luân bất phản

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn…

Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.

Lời dụ này đã thể hiện rõ mục đích cuộc tiến quân (bảo vệ các truyền thống văn hóa dân tộc như các tục để tóc dài, nhuộm răng đen khác Tàu) và quyết tâm đánh giặc đến cùng (đánh cho kẻ xâm lược không kịp trở tay, thân không còn mảnh giáp) và khẳng định chủ quyền quốc gia của Việt Nam (đánh cho lịch sử muôn đời biết rằng nước Nam anh hùng này là nơi đất có chủ).

Sang thế kỷ 20, dân tộc ta đã cho thế giới thấy sức mạnh kỳ diệu từ lòng yêu nước trong cuộc chiến tranh giành độc lập, quá thừa để bàn cãi ở đây.

Các anh cờ vàng và anh PHN này thường hay dùng nước Nhật để so sánh với VN và đi đến kết luận là cùng một màu da, tương đồng về địa lý, và dân số nhưng người Nhật phát triển vượt trội rồi đổ cái chậm tiến lạc hậu đói nghèo đó lên đầu nhà cầm quyền thậm chí như PHN đổ cả lên đầu dân tộc ta.

So sánh VN với Nhật PHN không thể không biết hoặc biết mà cố tình lờ đi rằng ngay từ năm 1894 Nhật đã đánh thắng Trung Hoa buộc phải nhường Đài Loan và công nhận riều Tiên độc lập qua Hiệp ước Shimonosheki .

Từ năm 1905 Nhật đã là cường quốc, Nhật đánh bại nước Nga có hải quân hạng nhì thế giới bấy giờ, Nước Nga của Sa Hoàng thảm bại buộc phải trao một số quyền đáng kể ở Triều Tiên và Trung Quốc cho Nhật Bản. Theo đó, Tokyo được trao bán đảo Kwantung cùng với cảng Arthur và phía nam đảo Sakhalin cho tới vĩ tuyến 50.

Và sau thất bại của Nga, các cường quốc phương tây buộc phải thừa nhận đất nước mặt trời mọc là một sức mạnh vào hàng thế giới.

Đó là về hải quân, về không quân thì năm 1945 khi dân VN còn chân đất kéo xe tay, người kéo cày thay trâu và hơn 90% người dân mù chữ thì Nhật Bản đã có máy bay đánh Trân Châu Cảng khiến Mỹ phải kinh hồn bạt vía, thất điên bát đảo.

Trước khi thua trận bằng 2 quả bom nguyên tử của Mỹ, Nhật từng đã xâm lược Trung Hoa trong 8 năm trời từ năm 1937 đến 1945.

Những cây viết cờ vàng thường so sánh với Nhật hay Nam Hàn để chê bai dân tộc mình, lèo lái suy nghĩ của người đọc về huớng tương đồng về văn hóa, địa lý, màu da nhưng người Việt lại chậm tiến so với người họ, mà cố tình lập lờ, cố tình quên đi lý do lịch sử hoàn toàn khác nhau. Hoặc là họ lưu manh trí trá cố đánh lừa người đọc hoặc họ không đứng ở góc nhìn của dân tộc để nhìn lịch sử mà họ đứng ở góc nhìn của kẻ quen làm nô lệ.

Hết so sánh với người Nhật, PHN lại so sánh cuộc chiến VN với cuộc nội chiến Mỹ để đá giò lái CS, rồi khuyên dân ta nên . . . . .học Mỹ về lòng yêu nước.

PHN viết :” Hy vọng rằng qua bài học về lòng yêu nước của người Mỹ và Nhật chúng ta có thể rút được vài điểm nào đó để tìm cách xây dựng lại lòng yêu nước của người Việt Nam.”

Xưa nay rất nhiều nước trên thế giới cho rằng cần học VN về lòng yêu nước chứ chưa từng thấy có ai khuyên VN nên học lòng yêu nước từ Mỹ cả. Duy nhất chỉ có PHN có đầu óc như thế.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, và nhất là sau 1975, cả thế giới đã phải nhìn nhận tinh thần bất khuất và sức mạnh từ lòng yêu nước mãnh liệt của dân tộc VN. VN được xem là tấm gương cho những nước thuộc địa, những nước bị cường quốc áp bức. Ngay những chiến binh Mỹ cũng vô cùng ngạc nhiên về sức mạnh từ lòng yêu nước của dân Việt và xem đó là tấm gương cho các nước yếu, thế mà PHN khuyên dân ta phải học theo Mỹ mới có được lòng yêu nước. Chỉ có đầu óc quen làm nô lệ mới nghĩ ra và can đảm viết lên điều này.

Ngày nay bất cứ ai muốn tìm hiểu cũng có thể tìm được thông tin và ai cũng nhận ra hai cuộc chiến Nam Bắc Mỹ và cuộc chiến tranh VN hoàn toàn khác xa nhau cả về tính chất lẫn quy mô. Việc so sánh là là có ý đồ đen tối và vô cùng khập khiễng.

Cuộc chiến tranh VN là cuộc chiến tranh đánh đuổi ngoại xâm giành độc lập từ 2 đế quốc. Dù cuộc chiến có sự hiện diện của quân đội VNCH đi nữa nó cũng không thể gọi được là cuộc nội chiến vì VNCH được đẻ ra và là công cụ của Pháp rồi đến Mỹ. Đánh Pháp, đánh Mỹ là buộc phải đánh VNCH, dù đó là anh em, dù đó là đồng bào. Đó là điều dĩ nhiên, đó là sự bắt buộc, đó là sự nghiệt ngã của chiến tranh. Đó mới là nguyên nhân của những nỗi niềm cờ vàng kéo dài gần 4 thập kỷ qua.

Một quân đội được đẻ ra và nuôi dưỡng bởi đế quốc, được chỉ huy bằng những tướng lãnh được đào tạo bởi thực dân và đế quốc như quân đội VNCH, bị sai khiến và lệ thuộc hoàn toàn vào ngoại bang không thể so sánh với quân ly khai miền Nam trong cuộc nội chiến Mỹ được.

Những người CS từng xác định trong chiến lược của mình là chỉ cần đuổi bố chạy thì con sẽ chết, họ đã đúng và thưc tế đã chứng minh y như thế. Hiệp định Paris CSVN cũng ở chiếu trên ký với bố Mỹ chứ không phải với con VNCH.

Từ bản chất cuộc chiến hoàn toàn khác nhau cho nên những so sánh của PHN về cuộc chiến VN với cuộc nội chiến Mỹ hoàn toàn không có giá trị.

PHN đề cao “tinh thần hào hiệp mã thượng” của người Mỹ, nhưng lại nhìn dân tộc VN với cái nhìn đã bị Mỹ hóa và đầy hận thù cho nên thể không thấy được dân tộc ta ứng xử nhân bản như thế nào với cựu thù.

Nói về tính nhân bản và tinh thần mã thượng của dân tộc ta thì chính người Mỹ phải công nhận trước tiên. Những cựu binh Mỹ từng gây tội ác với nhân dân ta vô cùng ngạc nhiên bởi thái độ của người dân đối với họ khi họ quay lại chiến trường xưa, chính thái độ và cách hành xử nhân bản đó đã cảm hóa được rất nhiều người mà ta có thể tìm thấy vô số dữ kiện loại này trên interrnet.

Nếu so sánh điều này với người Nhật thì PHN hãy đọc bản tin sâu đây :

Tạp chí National Geographic Vol.182, No. 5 ra ngày 18 – 11- 1992 có bài “Portugal’s sea road to the East” p. 56- 93, cho biết :
Vào năm 1638 tại Nagasaki Nhật bản có khỏang 100 ngàn giáo dân Công giáo làm nội ứng cho quân Bồ Đào Nha xâm chiếm Nhật. Triều đình Nhật cử tướng Lemitsu đem đại quân đến đánh bật bọn xâm lược ra khỏi đất nước. Tất cả cha cố, thừa sai bị tử hình, và 37 ngàn tên giáo dân Công giáo nối giáo cho giặc bị tiêu diệt . Một số tên trốn thoát nhảy theo tàu Bồ Đào Nha trốn sang Hội An Việt Nam.”

Ở VN chiêu trò của thực dân cũng chẳng khác gì . Nửa cuối thế kỷ 19 có đến 600 ngàn người theo tôn giáo này phá bỏ tập tục cha ông, lìa bỏ nề nếp văn hóa dân tộc . Tuy nhiên, trước khi Pháp đổ quân xâm chiếm Việt Nam, những người Công giáo được coi là những công dân lầm lạc vì nhẹ dạ và ngu dốt nên Triều Đình và nhân dân Việt Nam không nỡ ra tay với họ. Nhưng kể từ khi Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1858, đa số giáo dân Công giáo đã trắng trợn ra mặt theo giặc và phản bội Tổ Quốc.

“Năm 1873, 5000 giáo dân Ca tô dưới sự lãnh đạo của linh mục Trận Lục giúp Pháp hạ thành Ninh Bình và đánh chiếm chiến lũy Ba Đình cỉa Đinh Công Tráng.

Trần Bá Lộc, sinh năm 1834 trong một gia đình Công giáo tại Long Xuyên. Lộc xin vào đoàn quân Công giáo do Charner tổ chức chuyên việc lùng quét các nhóm quân kháng chiến. Sau khi tham gia nhiều trận đánh tái chiếm Rạch Giá, Lộc được Pháp phong chức tổng đốc Rạch Giá. Y là tên đại Việt gian được Pháp tín nhiệm trao nhiệm vụ triệt hạ phong trào kháng chiến từ Quảng Nam đến Phan Thiết. Với nhiệm vụ này, Trần Bá Lộc đã giết hại khoảng 25 ngàn người Việt yêu nước.
Trần Tử Ca, nguyên là một người bên lương, sinh trưởng tại Gò Vấp. Lúc đầu y đi theo kháng chiến, nhưng sau đó y theo đạo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca được Pháp bổ làm tri huyện Hóc Môn. Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh miền Tây. Đêm 9-2-1885, Ca bị nghĩa quân giết chết .

Huỳnh Công Tấn là một người Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định tại Gò Công. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này !

Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang, lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh khởi nghĩa tại Bắc Kỳ chống triều đình Huế năm 1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. Napoleon III đồng ý, và cử tên gián điệp Duval sang Việt Nam giúp Phụng với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo với một chính quyền Công giáo. Duval đi Macao mua vũ khí và giúp Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân. Trong các tháng 6 và 7-1863, Phụng khởi quân đánh chiếm một vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh Quảng Yên, Hải Dương và Nam Định.Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương đem quân ra Bắc dẹp loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem về Huế xử tử. “(1)

Nhìn những sự kiện lịch sử nêu trên, nếu so sánh hành động tàn sát giáo dân của người Nhật với việc cấm đạo của vua quan các triều đại phong kiến VN thì VN còn quá nhẹ, quá hiền và quá nhân đạo.

Học gì từ “tinh thần hào hiệp mã thượng” của người Mỹ và người Nhật đây hả ông PHN?

PHN viết :

“Người Việt Nam ngày nay không còn mấy ai hãnh diện về đất nước “

Không hiểu PHN căn cứ vào đâu để phát biểu hàm hồ như thế, Cứ nhìn những giọt nước mắt sung sướng nghẹn ngào mỗi khi cờ VN được kéo lên khi vận động viên đem huy chương về cho tổ quốc. Cứ nhìn màu đỏ rực lửa trên sân vận động mỗi khi có đội VN thi đấu. Cứ nhìn rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường khi VN thắng trận đủ để thấy PHN phát biểu lếu láo và vô cùng cảm tính. Cũng chỉ vì căm thù mà PHN hồ đồ dán cái bất mãn của mình cho cả dân tộc.

PHN viết :

“Vào ngày 7/5/1975, có nghĩa là chỉ có 1 tuần sau khi quân đội Miền Bắc chiếm được Miền Nam, trong lễ ăn mừng chiến thắng tướng Trần Văn Trà đã nói trước mặt mọi người: “Trong cuộc chiến này, cả Miền Bắc và Miền Nam đều chiến thắng, chỉ có người Mỹ bại trận”.

Và dĩ nhiên, sau khi bóp méo câu nói của Tướng Trà rồi so sánh với phát biểu của tướng Ulysses Grant PHN phán thòng thêm một câu đá giò lái CS như sau :

“…câu nói của tướng Trần Văn Trà là câu nói mị dân, nằm trong mục đích tuyên truyền của chế độ để gạt tất cả những quân dân cán chính của VNCH, tin vào chính sách “khoan hồng của Đảng”

Thực tế Tướng Trà phát biểu không phải là trong lễ mừng chiến thắng như PHN viết, mà phát biểu khi ông trực tiếp gặp tổng thống Dương Văn Minh, phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu vừa thông báo quyết định, vừa truyền đạt chính sách của cách mạng như sau :

“Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã quyết định trả tự do cho các ông về với gia đình. Giờ đây miền Nam Việt Nam đã được hoàn toàn giải phóng, nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai đã toàn thắng…

Bây giờ đất nước Việt Nam đã độc lập và thống nhất, không phải là lúc nói chuyện người thắng kẻ thua. Đối với chúng ta, không có kẻ thua, người thắng mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta thắng Mỹ…

Mỗi người Việt Nam lúc này hãy thực hiện tốt chính sách hòa hợp dân tộc của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đem hết sức lực và trí tuệ của mình để góp phần xây dựng đất nước sau 30 năm chiến tranh tàn phá…”.

Ngay từ những giờ phút đầu tiên khi đối phương đầu hàng Tướng Trà đã nói đến việc hòa giải dân tộc.

Kiểu bóp méo xuyên tạc và so sánh trí trá xảo quyệt của PHN dễ làm cho những người thiếu thông tin bị lừa. Nếu phải so sánh các hành xử của các tướng lãnh Nam Bắc Mỹ trong cuộc nội chiến thì hãy so sánh với sự chống đối và ly khai của Ba Cụt dưới chế độ VNCH là chính xác nhất. Ba cụt cũng ly khai và không chấp nhận quyền lực của Ngô Đình Diệm, Ba cụt cũng thất bại như các tướng miền Nam trong cuộc chiến Nam Bắc Mỹ nhưng Ba Cụt thì cuối cùng bị Ngô Đình Điệm . . . tử hình. Không hiểu sao PHN không phân tích “tinh thần mã thượng” của chế độ VNCH và lý do gì chế độ VNCH không học theo Mỹ trong trường hợp này nhỉ?

Đứng trên quan điểm của kẻ phi dân tộc thì luôn có hành xử phản dân tộc. Đứng trên quan điểm của kẻ quen làm nô lệ thì không bao giờ hiểu được giá trị đích thực của độc lập tự do. Nhưng đó lại chính là góc nhìn của những kẻ chống cộng bao năm nay . Chính từ góc nhìn này cộng với hận thù triền miên mà họ không bao giờ có được niềm tự hào của người dân Việt như chúng ta. Họ bi quan cho cái tiền đồ chống cộng của họ, họ đổ lỗi cho hoàn cảnh, họ đổ lỗi cho Cộng Sản và thậm chí đổ lỗi cho cả dân tộc ta như luận điệu của cây viết cờ vàng PHN này.
Đó cũng là lý do tôi đặt tựa cho bài viết này là “KHI KẺ NÔ LỆ DẠY TA YÊU NƯỚC”

(1) Charlie Nguyễn : Hồ Sơ Tộc Ác của Hội Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công GiáoViệt Nam trong lịch sử mất nước hồi cuối thế kỷ 19

Xichloviet

 

Nhãn: , , , , , , , , , , , , ,

Bố gần chết tâm sự với nhóc con hậu duệ cờ vàng

cxn

Đọc thêm nhé: TÂM SỰ CỜ VÀNG

Không ai có thể đếm hết được những đầu bếp chuyên chế biến thức ăn cho cờ vàng, nhưng thợ giỏi thì không nhiều, cùng món “rận chó hay là món chiên ghẻ” nhưng mỗi anh chế biến một kiểu, có anh chế biến để hạp khẩu vị con chiên, có anh thêm nếm cho nó hạp cái vị cay cú cờ vàng và thế là đủ để ăn khách, cũng những món này nhưng có anh bị tổ trác, xào nấu nhạt nhẽo lại quá hưng phấn thêm nếm quá tay bởi vậy cứ thối um cả lên, mà ngay cả cờ vàng cực đoan thứ thiệt cũng không thể ngửi nổi và rồi cuối cùng thì quay ra cắn nhau – Vui đáo để.!


Ở cái tuổi cận kề miệng hố bố cảm nhận rằng đến lúc cần phải truyền cho con tất cả kinh nghiệm thăng trầm cuộc đời mình để con hiểu hơn về sự nghiệp của bố, cái sự nghiệp mà khi cuộc đời bố đã tiến sát gần đến cái quan tài mà nó vẫn còn lởm chởm chông gai và ngổn ngang xà bần: Sự nghiệp cờ vàng.

Lá cờ vàng của chúng ta xưa nay vẫn luôn luôn là biểu tượng để tập hợp những nạn nhân cộng sản (CS), những người không chấp nhận CS và chống cộng bằng mọi giá. Cũng không ít người là thành phần bị CS bợp tai đá đít tống khứ sang đây tức quá không biết làm gì bèn quơ lấy lá cờ vàng chửi bới trả đũa. Cũng có những thành phần “homeless,” chẳng có thâm thù gì, ăn no rửng mỡ, phất lá cờ vàng chống cộng làm vui, đi biểu tình cho nó tiêu mỡ lại được tiếng là đấu tranh, là có lập trường.

Bố đã nhân danh lá cờ này bao năm qua để chống cộng, để thỏa lòng thù hận, để tồn tại trên cái xứ người này, và để còn được vuốt ve sờ mó mân mê cái hư danh quá khứ.

Sở dĩ cho đến hôm nay vẫn còn rất nhiều kẻ phất lên lá cờ vàng ba sọc đỏ và hô hào chính nghĩa quốc gia chống lại CS vì lá cờ đó vẫn còn ép phê trong việc gây dựng phong trào, tập hợp bầy đàn. Bởi vì nó vẫn còn giá trị để móc túi những kẻ hoang tưởng u mê, bởi vì vẫn còn đó những thành phần cực đoan dốt nát lịch sử, không biết cội nguồn cuộc chiến phi nghĩa và còn mơ mộng với ảo tưởng còn cơ hội lật đổ CS. Những thành phần này thiếu đầu óc nhưng thừa lòng thù hận. Không có bọn này thì lá cờ đã được ngủ yên.

Từ lâu bố đã nhận ra rằng một bộ phận trong cộng đồng người Việt hải ngoại, thành phần hưởng lợi từ cuộc chiến, xem tư tưởng chống cộng như một sự khẳng định mình, như một món trang sức cho cái nhãn hiệu tỵ nạn. Tư tưởng chống cộng phải được xem như một lập trường kiên định hàng đầu, bấu víu vào nó để tự đánh lừa mình, để có cảm giác rằng ta đây đang ở một chiến tuyến khác ngang cơ với CS, quên đi nỗi ô nhục thất trận, quên đi nỗi uất nghẹn bị Mỹ chơi xỏ bỏ rơi không thương tiếc. Họ rất yếu kém trong tư duy chính trị, rất nhút nhát và chỉ to mồm dựa vào hội chứng bầy đàn. Họ chửi rất hăng, quần tụ được nhiều nhưng cũng chỉ là một bầy đàn ô hợp. Họ hô hào và ứng xử theo đám đông một cách máy móc không suy xét, họ bị cuốn theo đám đông và rất dễ trở thành quá khích, cũng chính vì họ quá cay cú CS, chỉ chờ có cơ hội để trút bớt lòng hận thù cho được nhẹ nhõm. Cái nỗi niềm cay cú mà gần bốn chục năm rồi nó vẫn chưa có liều thuốc nào có thể tiêu hóa nổi.

Thất bại ô nhục năm 1975 mất hết danh vọng tiền bạc và bị CS nó bắt cuốc đất trong các trại cải tạo làm họ căm thù CS vô cùng. Qua được bên Mỹ họ dần hoàn hồn, mặt bắt đầu có máu, lá gan bắt đầu hồi sinh trở lại và nhận ra rằng Mỹ có môi trường tự do để họ trút giận, xả xú bắp lòng hận thù.Thế là họ tập họp nhau lại như ngưu tầm ngưu mã tầm mã để tố cộng và biểu tình. Cội rễ mọi hành động của họ đều xuất phát từ mối thù CS năm xưa đã tước đoạt của họ tất cả những quyền lợi, những ân ân sủng do đế quốc ban cho.

Những năm đầu tị nạn họ vẫn còn hăng tiết vịt, hăng tiết vịt cộng với cái ngu dốt làm cho họ hoang tưởng trầm trọng. Một số quá khích được các chiến hữu bốc lên mây khoái chí manh động mộng thành người hùng, hoang tưởng là Mỹ nó ủng hộ vì Mỹ cũng là kẻ chiến bại dưới tay Cộng Sản Việt Nam (CSVN), định vác lá cờ vàng về Việt Nam kiếm ăn như những nhân vật Mai Văn Hạnh, Hoàng Cơ Minh… đã phải trả giá thê thảm. Chưa hết, Võ Văn Đức háo danh định chơi nổi âm mưu đánh bom đại sứ quán VN tại Thái. Không những Mỹ nó không bênh mà còn “khuyến mãi” cho 6 cuốn lịch rồi tống cổ sang Thái xử tiếp. Tòa Thái cũng nhiệt tình đóng góp ủng hộ thêm 12 cuốn lịch nữa để có thêm thời gian gặm nhấm mộng cờ vàng.

Họ ngu đến độ phải mất mấy chục năm họ mới nhận ra được rằng dù Mỹ thua trong cuộc chiến, CSVN không còn là kẻ thù của Mỹ nữa mà còn là bạn, là đối tác hợp tác phát triển. Cả thế giới đang bang giao và làm ăn với VN một cách hòa bình không có khe cửa hẹp nào để lá cờ vàng chui vào để hy vọng có được một chút chú ý của quốc tế.

Thế là những con người ấu trĩ này chỉ còn cách cố bấu víu lấy nhau, bấu víu lá cờ vàng để động viên an ủi nhau, để làm cái phao, cái điểm tựa cuối cùng chống lại CS, chỉ vì lý do duy nhất họ quá cay cú căm thù CS. Tuy nhiên hành động của họ càng ngày càng thêm lố bịch nhố nhăng dẫn đến việc làm mất niềm tin trong giới trẻ, làm ô uế lá cờ vàng. Chính vì vậy mới có chuyên một họa sĩ trẻ con cháu cờ vàng vô tư cho lá cờ vàng trôi tuột vào tận cái chậu rửa chân trong một tác phẩm hội họa làm họ cứ như lọan cả lên.

Thế hệ cờ vàng thứ nhất hầu hết đều ăn bám xã hội Mỹ cho nên rất rảnh rỗi để đàn đúm nhau mà đề tài chống cộng vẫn luôn là đề tài hấp dẫn họ. Nói là chống cộng cho oai chứ thất ra họ biết chẳng thể nào chống được mà chửi cộng mới là đề tài chính. Mấy chục năm qua là thời gian bùng nổ những từ ngữ chửi rất phong phú trong thế giới cờ vàng. Chống cộng không thể không nói đến biểu tình. Nhưng biểu tình với đối tượng nào đây? Không thấy CS đâu cả họ phải tìm ai đó chụp lên đầu cái nón cối để có cớ mà biểu tình hâm nóng tinh thần cờ vàng.

Những hình ảnh các con thấy bề ngoài của các cuộc biểu tình chỉ là bề nổi, hình ảnh dễ thấy nhất là thi nhau hò hét tưởng chừng như ăn tươi nuốt sống đối thủ nhưng chỉ là những vở diễn thôi con ạ. Mặt trái của những cuộc biểu tình mới là động cơ khiến họ tụ tập nhau đó là lý do thích đàn đúm ham vui. Những dịp này người ta được dịp gặp nhau nói năng thả cửa vì toàn là đồng hương tha hồ trao đổi tâm sự mọi thứ trên đời bằng tiếng Việt, xả stress những ngày xung quanh toàn mắt xanh mũi lõ chỉ biết nói chuyện bằng tay. Đây là dịp để họ khoe con khoe cháu, hỏi thăm nhau về thuốc men bệnh tật hỏi han nhau con chó đã động đực chưa. Liền sau đó họ hô đả đảo theo tiếng hô bầy đàn mà chẳng biết đả đảo cái gì.

CS nó có nhiều cái quá giỏi nhưng bố chẳng thể khen chúng được mà ngược lại phải tìm cách để chê, phải bới móc ra cho đuợc cái yếu kém cái khuyết tật của nó để sỉ vả nguyền rủa nó cho nó sướng cái lỗ tai cho nó oai cái lỗ mồm, cứ gặp nhau là vạch lá tìm sâu để tố khổ nó để hài tội nó để gật gù với nhau mà hả hê cái bụng. Thế nhưng mỗi bước đi lên, mỗi thành công của CS lại là mỗi cú bạt tai đau điếng mà bố từng phải hứng chịu. Mỗi sáng thức dậy, xem tin tức về VN bố lại phải điểm tâm thêm vài ba cú bạt tai, tráng miệng bằng vài cú đá đít, vài cú hồi mã thương, vài cú bạt rờ que, vài cú đấm đau nhói tâm can.

Con hãy nhìn xem, những cuộc biểu tình ô hợp chỉ toàn dân ăn không ngồi rồi không việc làm, thiếu kiến thức, nhưng thừa mứa thời gian, toàn là dân già háp khú đế ăn bám xã hội, lê chân không vững, nhưng cái mồm còn ngoác ra to khỏe vô cùng, và vẫn còn tác dụng khủng bố lợi hại. Mọi thứ đã xuống cấp nhưng cái mồm thì không. Vẫn còn phun được nước thối vẫn chửi vung xích chó, vẫn chụp mũ vẫn lươn lẹo điêu ngoa vẫn lừa bịp xảo trá. Mấy chục năm qua họ đã phát triển trình độ chửi nhau thượng thừa, sáng tác ra đủ ngôn từ hình tượng nhất.

Họ lấy biểu tình làm vui, làm nơi đàn đúm tán gẫu truyền lửa cho nhau chống cộng. Họ hè nhau nói xấu xuyên tạc CSVN, cùng nhau gật gù tán đồng nhưng trong bụng họ biết rõ là đang tự lừa dối mình. Họ không dám nói điều gì tốt về CS, họ sợ chính những người cùng hội cùng thuyền với mình tẩy chay và khủng bố. Về VN họ thấy quá nhiều đổi thay diệu kỳ, cuộc sống đang đi lên mạnh mẽ từng ngày, nhưng họ chẳng dám nói thật với nhau một lời ngợi khen đất nước, sợ bị cho rằng tuyên truyền cho CS.

Cứ như thế gần bốn chục năm rồi vẫn cái trò bưng tai bịt mắt nhau không có gì thay đổi. Vũ khí của họ chống cộng mấy chục năm cũng vẫn chẳng có gì ngoài cái mồm và cái que cờ vàng hết đát.

Để vực dậy tinh thần cho nhau, lâu lâu họ hè nhau lủ khủ quần áo rằn ri, mũ nồi giày bốt, vài cây súng nhựa trẻ con, khoác vào chỉ để đi qua đi lại, đi tới đi lui, đi vòng vòng ở một góc phố gọi là diễu hành. Khi súng thật có trong tay thì họ bỏ chạy vứt bố cả súng, quẳng cả ba lô giày dép, qua đây họ chơi súng nhựa đồ siđa đeo vào để chụp hình quay phim để mà lấy khí thế chống cộng. Họ tự biên tự diễn những tiểu phẩm hài nhố nhăng trên đường phố một cách vô tư, cũng diễn văn, cũng dậm chân chào nhau, cũng quốc ca quốc kỳ. Như thế họ ôn lại những năm tháng họ cho là hào hùng và cố quên đi nỗi ám ảnh những tháng ngày phải tuột quần vứt dép chạy như một bầy vịt.

Tuy họ mặc vào bộ quần áo lính siđa đeo cây súng nhựa nhưng có vẻ như họ rất hãnh diện. Hình như cây súng nhựa cũng phần nào củng cố làm ấm cho lá gan của họ, và cũng không ít kẻ nghĩ rằng bên kia đại dương, bọn CSVN đang nhìn họ với cặp mắt kiêng nể dè chừng, và họ tin rằng cuộc biểu dương đi tới đi lui là bức thông điệp gửi CSVN nhắc nhở cho bọn CSVN biết rằng cái quân đội cộng hòa vẫn còn đây, tuy không uýnh lại tụi mày nhưng vẫn còn dư sức đi tới đi lui khiêu khích chọc quê chúng mày cho bõ ghét. Thế rồi họ ru ngủ nhau tâng bốc nhau, xưng tụng nhau rồi cùng nhau hội họp phán đoán xem… ngày CS nó quy tiên như thế nào.

Cao điểm của sự nhố nhăng là họ hí hửng mừng rỡ tung hô một thằng con nít tự xưng là tướng Hải Quân Hoa Kỳ gốc cờ vàng. Một tướng lãnh Hoa Kỳ oai như thế đứng trước họ mà vẫn lễ phép xưng hô con cháu với họ thì không phồng mũi sướng đê mê sao được. Hơn nữa tướng này lại là con cháu dòng dõi cờ vàng nữa thì quả là niềm hãnh diện lớn lao. Cứ thế cả bầy cờ vàng già đầu bị thằng con nít nó làm xiếc, nó quay mòng mòng như dế, nó cho vào tròng dễ như móc đồ trong túi. Thế mà họ vẫn phồng mũi tự hào, họ xun xoe chào đón nâng bi nó, họ đê mê hoan hỉ với những lời hứa của thằng bịp, lòng họ lại dâng trào niềm kiêu hãnh hão huyền và dâng trào niềm tin phục quốc. Cái lòng cay cú hận thù làm họ u mê như thế đấy. Còn có gì để nói hay không.

Họ luôn luôn thủ sẵn những cái nón cối lợi hại để sẵn sàng chụp lên đầu kẻ nào họ không ưa. Bóng ma CS còn lởn vởn ám ảnh họ đến nỗi họ nhìn đâu cũng thấy CS. Thế là họ thi nhau chụp nón cối cho nhau xem như hành động “tiên hạ thủ vi cường” – thà bắn lầm còn hơn bỏ sót.

Nhưng họ lại cực kỳ sợ hãi ảnh hưởng của CS. Họ sợ vu vơ, tự kỷ ám thị, thậm chí đến cái ngày sinh của lãnh tụ CSVN họ cũng sợ nốt, họ chống đối một “show” diễn ca nhạc cũng chỉ vì nó được trình diễn vào ngày 19 tháng 5, ngày ông Hồ Chí Minh ra đời. Họ hăm dọa nhà hàng tổ chức tiệc sinh nhật của một nhà báo chỉ vì nó được tổ chức đúng vào ngày 19 tháng 5.

Cái mà họ sợ nhất là những cơ quan truyền thông quốc tế và hải ngoại đưa tin ca tụng thành công của CS. Họ cũng lo sợ ngày nào đó truyền thông CS tràn sang Mỹ sẽ bẻ gãy luận điệu bịp bợm của họ và nguy hại hơn là hình ảnh của Việt Nam hiện đại hấp dẫn chinh phục được tầng lớp trẻ trưởng thành tại Mỹ. Vì vậy họ vô cùng hốt hoảng khi nghị quyết 36 của CSVN ra đời. Họ cường điệu lên về mối nguy hại của nghị quyết 36, họ báo động cho nhau giống y như những con thú hoang kêu chí chóe hoảng loạn khi ngửi thấy hơi loài sư tử, và họ bắt đầu thấy bóng ma CS lấp ló nhiều hơn.

Bóng ma CS nó hiện diện trong các cuộc trình diễn văn nghệ có các nghệ sĩ trong nước, nó lù lù ẩn hiện trong tấm thảm đỏ trải chân, nó nhe răng khiêu khích trong cái sợi dây thắt lưng quần của nghệ sĩ. Nó nhảy xổ vào các tờ báo hải ngoại, nó chui tọt vào cả các cơ quan dân cử và rồi nó an tọa trong cái chậu rửa chân để làm nhục lá cờ vàng.

Họ rất nhút nhát và thiếu tự tin. Họ gập mình trước người da trắng nhưng lại hùng hổ thô bạo với đồng bào. Họ chửi rủa thậm tệ những người họ không ưa ngay trên đường phố bằng những lời lẽ của bọn dân chơi cầu ba cẳng, họ nhổ nước bọt thối vào những người họ ghét, họ vạch quần chĩa vòi đái trước cửa tòa soạn báo mà họ đang biểu tình chống đối, họ trét cứt vào cửa hiệu người ta, họ ứng xử như những tên côn đồ hung hãn. Những hành động ấy họ gọi là “chống cộng.”

Nhưng khi biểu tình bao giờ cũng phải có những lá cờ Mỹ chống lưng để chứng minh lòng trung thành và ước vọng được quy phục.

Những ngày họ mới qua đây, lá cờ vàng đã là phương tiện kiếm ăn vô cùng béo bở cho nhiều tay hoạt đầu, cơ hội chính trị. Đến nay tuy khó khăn hơn nhưng nó vẫn còn kiếm chác được, vì vậy cho nên những màn hoạt kê cờ vàng vẫn tồn tại. Thời thế đã đổi thay, CS đổi thay, thế giới đổi thay, duy có cộng đồng cờ vàng là y như cũ, có khác chăng là thành viên của nó càng ngày ít đi, càng già đi, thân xác héo úa, và càng ngày càng trơ trẽn lố bịch. Bố theo lá cờ này quá lâu nên da cũng đã vàng úa héo hắt theo lá cờ, mặt thì hằn lên những sọc thời gian mà công cuộc chống cộng vẫn còn mịt mù xa vời vợi.

Đến lúc này bố cảm thấy cần phải nói cho con biết tường tận về lá cờ của chúng ta để con chọn cách ứng xử có lợi cho mình tùy tình thế. Dù phất lên lá cờ vàng nhưng hầu hết dân cờ vàng đều mù tịt về lịch sử ra đời của nó

Lá cờ vàng ba sọc đỏ này thoát thai từ giải pháp Bảo Đại do liên minh Vatican-Pháp cho ra đời vào năm 1948. Giải pháp Bảo Đại là do chủ trương của Vatican được công khai hóa bởi lời tuyên bố vào ngày 28 tháng 12, 1945 của viên Khâm Sứ đại diện của tòa thánh Vaican tại Hà Nội là Tổng Giám Mục Antoni Draper (Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 Tập A: 1939-1946). Kiểu dáng lá cờ cũng được một linh mục sáng tác làm biểu tượng quyền lực của Vatican rồi ngụy tạo thành biểu tượng của chính nghĩa quốc gia và những người quốc gia chống cộng.

Người ký văn bản “Pháp Quy Tạm Thời” cho thi hành treo Quốc Kỳ vàng ba sọc đỏ và bài Quốc Ca của Lưu Hữu Phước vào ngày 1 tháng 6, 1948 (nhằm ngày 24 tháng 4 năm Mậu Tý) là một tay Việt gian chính gốc: Thủ Tướng dân Tây có vợ đầm Nguyễn Văn Xuân. Người đề nghị lấy lá cờ vàng ba sọc đỏ thay cho lá cờ quẻ Ly là André Trần Văn Đôn, là tà lọt, tức là “Aide de camp” của ông Xuân.

Những chính phủ do ngoại bang đẻ ra từ Bảo Đại đến Ngô Đình Diệm, và các chính quyền tại vị đến 30 tháng 4, 1975 đều do ngoại bang nuôi dưỡng, trang bị và sai khiến.

Phất lá cờ này, chính quyền bù nhìn làm tay sai cho ngoại bang tự tin hơn, bấu víu lấy nó, họ trút đi được phần nào mặc cảm Việt gian. Và bọn xâm lược ẩn mình tốt hơn để dễ bề sai khiến bầy tôi cờ vàng. Như vậy lá cờ vàng che đậy được cho cả quân xâm lược và chính quyền Việt gian. Thật là cao tay, thật là vẹn cả đôi đường. Lá cờ vàng có nhiệm vụ lịch sử của nó là như thế.

Quốc ca của chúng ta nguyên là bài Sinh Viên Hành Khúc do Lưu Hữu Phước sáng tác năm 1942, năm 1943 nó được cả 3 kỳ biết đến với cái tên Tiếng Gọi Thanh Niên. Ta chôm bài hát này chế biến lại rồi đặt tên “Tiếng gọi công dân” để làm bài quốc ca mà ta hát như con vẹt cho đến tận hôm nay. Về tuổi tác, bài Tiếng Gọi Thanh Niên được 6 tuổi thì lá cờ vàng của chúng ta mới chào đời. Thông thường, quốc kỳ của các quốc gia trên thế giới xuất hiện trước bài quốc ca. Lá cờ của chúng ta lại ra đời sau bài hát mà ta gọi là quốc ca đến 6 năm, đây là sự vá víu vụng về nghịch thường.

Lá cờ Pháp ra đời trong cuộc cách mạng 1789 thì 3 năm sau, năm 1892 quốc ca pháp mới có mặt.

Cũng như Pháp, lá cờ Mỹ xuất hiện trong cuộc chiến tranh Cách Mạng 1776-1783 nhưng mãi tới khi tiến hành cuộc chiến Anh-Mỹ 1812, bản quốc ca Hoa Kỳ mới ra đời do một sĩ quan Hải Quân Mỹ sáng tác và sau đó được Quốc Hội Mỹ chấp thuận.

Bài Kimigayo quốc ca nhật ra đời năm 1893 (Minh Trị 26). Quốc kỳ Nhật hình tròn đỏ trên nền màu trắng ra đời năm 1854.

Việc quốc kỳ ra đời sau quốc ca đến 6 năm có lẽ đây là lá cờ độc nhất vô nhị không đụng hàng. Bài hát ta gọi là quốc ca cũng chôm chĩa của Việt Cộng nốt vì đây là bài của Lưu Hữu Phước. Lưu Hữu Phước viết bài này để kêu gọi lòng yêu nước, kêu gọi thanh niên đứng lên chống thực dân Pháp, tác giả lại là một tay Việt Cộng có hạng. Thế mà ta lại chôm bài này để kích động đồng bào chống Việt Cộng thì rõ ràng chúng ta đã khập khiễng ngay từ gốc rồi, lại thêm một nghịch thường nữa. Đến bài quốc ca mà cả một “quốc gia” không ai làm được phải chôm chĩa của Việt Cộng thì còn nói gì đến chống cộng. Việc bị Việt Cộng nó uýnh te tua tơi tả, thầy trò bỏ mặc nhau chạy vắt giò lên cổ là chuyện tất yếu. Thế mà bây giờ lại còn mưu đại sự phất lá cờ vàng để mưu đồ đánh đuổi CS để phục quốc cờ vàng, không gọi là tâm thần óc đậu thì gọi là cái gì đây?

Cái gọi là quốc kỳ và quốc ca có lịch sử chắp vá khiên cưỡng như vậy, ra đời trong hoàn cảnh như vậy, thế mà đã có một thời từng là biểu tượng quốc gia, và cho đến hôm nay, ở ngay nước Mỹ này vẫn có kẻ phất nó lên như lá cờ chính nghĩa. Không gọi là dốt nát cuống tín ngu muội thì gọi là cái gì đây?

Lá cờ đỏ sao vàng của CS nó ra đời trước lá cờ của chúng ta đến 8 năm và lần đầu tiên nó xuất hiện lại chính ở miền Nam của chúng ta ngày 23 tháng 11, 1940 trong cuộc Nam Kỳ khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Tháng 5 năm 1941 ông Hồ Chí Minh ký văn bản quy định quốc kỳ Việt Nam là nền đỏ sao vàng năm cánh.

Bài hát “Tiến quân ca” được nhạc sỹ Văn Cao (1923-1995) sáng tác vào cuối năm 1944. Ngay sau khi ra đời, bài hát đã được các binh lính CS tiếp nhận và trở thành bài hát chính thức của Mặt Trận Việt Minh.

Như thế lá cờ đỏ sao vàng ra đời trước lá cờ vàng, nó ra đời trong kháng chiến, theo yêu cầu của cuộc kháng chiến chống thực dân. Bài Tiến Quân Ca Việt Minh sử dụng như lời hiệu triệu kháng chiến sau này trở thành quốc ca Viêt Nam cho đến nay. Quốc kỳ và quốc ca do CSVN sử dụng có một quá trình hình thành và tồn tại rất logic, rất minh bạch và chính nghĩa. Lá cờ này đã phất lên suốt hai cụộc kháng chiến giành độc lập và ngày nay nó phất phới bay ngạo nghễ ở trụ sở Liên Hiệp Quốc cùng gần hai trăm lá cờ khác trên thế giới. Trong khi đó cộng đồng cờ vàng lúc này thì cứ chống nhau chí chóe loay hoay cố vớt lấy “quốc kỳ” của mình lên từ cái chậu rửa chân.

Những điều vừa viết ra, bố biết rất rõ, nhưng luôn phải tránh né không dám thừa nhận, vì nó là vấn đề tế nhị nhạy cảm, nhất là thực tế lịch sử ảnh hưởng đến tiền đồ lá cờ vàng, ảnh hưởng đến niềm tin của người tỵ nạn, ảnh hưởng đến tinh thần chống cộng của những người quốc gia và điều quan trọng nhất là ảnh hưởng đến thanh danh và sĩ diện của cộng đồng cờ vàng. Nếu con nói điều này ra dù nó là sự thật lịch sử đi nữa, cái nón cối sẽ lập tức bay lên đầu con ngay.

Chúng ta dựa vào chính nghĩa chống cộng, chống lại sự xâm lược của CS miền Bắc, nghĩa là ta cho rằng Việt Cộng xâm lược chính đất nước của họ – Đó là một nghịch lý không thể ngụy biện. Điều nghịch thường lớn nhất là lấy một lá cờ do ngoại bang tạo ra để chống lại lá cờ xuất thân từ phong trào yêu nước kháng chiến chống thực dân thì dù có che đậy giỏi đến đâu chăng nữa, chắc chắn phải có ngày lá cờ này lòi mặt nạ hiện nguyên hình bản chất và sứ mạng nó đã được thực dân giao phó. Dù ta có ngụy biện đến đâu, có bôi nhọ CS đến đâu, và cho dù CS có xấu xa đến đâu chăng nữa, ta không thể phất lá cờ vàng như là lá cờ chính nghĩa để hiệu triệu đồng bào đứng về phía mình. Nhưng cộng đồng cờ vàng đâu nhận ra được điều này, vì lòng thù hận đã làm họ trở nên quá u mê, vì họ không còn cái gì khác để vịn vào, và vì cái sĩ diện rằng chấp nhận CS là quy phục nó.

Nói thế để con hiểu, cha đẻ của lá cờ vàng ba sọc đỏ chính là thế lực ngoại bang, nó đã mang bản chất phi nghĩa ngay từ cội nguồn của nó. Làm sao có được lòng yêu nước thương dân phía sau một lá cờ như thế? Tuy nhiên, khi nào lá cờ vàng vẫn được người ta xem là biểu tượng của người quốc gia chống cộng, thì nó vẫn còn giá trị kiếm cháo kiếm cơm của bọn cơ hội cờ vàng. Dù rằng về khía cạnh lịch sử nó chỉ là món đồ chơi đã lỗi thời của những người từ nước khác và dân tộc khác mà thôi.

Tóm lại, lá cờ vàng là chỗ dựa bám víu cuối cùng của những người chống cộng hải ngoại. Không có nó xem như không còn phong trào chống cộng và họ chẳng còn việc gì để làm. Biểu tình cố vớt lá cờ lên từ cái chậu rửa chân, và có thể phải vớt nó lên từ cái chỗ dơ dáy nào khác nữa, cũng chỉ là cố vớt vát cái sĩ diện của họ, và vớt lấy cái nồi cơm của kẻ đầu cơ lá cờ vàng.

Bọn trẻ bây giờ chơi khăm mấy ông già đau quá, lấy nghệ thuật làm bia che chắn để công khai hãm hiếp lá cờ vàng mà chẳng ai làm gì được nó cả. Nếu công nhận nghệ thuật hay im lặng thì ngậm đắng nuốt cay, tiêu vong sự nghiệp cờ vàng, nếu phản kháng thì bị chê là dốt không biết thưởng thức nghệ thuật. Nhưng họ buộc phải chọn một đường và họ đành phải chấp nhận dốt để biểu tình vớt lấy lá cờ, cứu lấy sĩ diện. Nhưng cứ cái kiểu chống cộng cờ vàng như bao năm nay thì dù có vớt nó lên khỏi cái chậu này nó cũng sẽ lại rơi vào cái bồn khác, họ sẽ phải mãi chạy theo lá cờ vàng để vớt nó lên bởi vì họ đã lỡ to mồm chống cộng mấy chục năm rồi không tuột xuống được nữa.

Những người muốn nhúng lá cờ vàng vào cái chậu rửa chân dường như muốn lôi những cái đầu ngu ngốc u mê dìm luôn vào trong cái chậu. Cho nên những tên này mới phản ứng dữ dội, lôi kéo những kẻ có đầu óc vàng khè vào cuộc. Không phải vì lá cờ bị bôi nhọ mà vì những cái đầu này bị chạm nọc. Bởi vì như đã nói, làm gì có danh dự của một lá cờ do ngoại bang tạo ra làm biểu tượng phục vụ cho ý đồ xâm lược. Họ buộc phải biểu tình để phản ứng vì nếu không thì ai biết được mai đây chẳng biết cái đầu của họ sẽ còn bị dìm xuống đâu và chắc chắn cái mùi của nó phải nặng hơn cái chậu rửa chân.

Chống cộng mà không có lá cờ vàng thì cũng như là đi buôn mà không có vốn, đi câu mà không có mồi, đi săn mà không có súng. Diễu hành mà không có lá cờ vàng thì cứ như là đi tập thể dục nhịp điệu thì làm sao gây được tiếng vang. Phải cứu lá cờ vàng bằng mọi giá là như thế.

Ghi chú:

Nghe bài Tiếng Gọi Thanh Niên

Tiếng Gọi Thanh Niên
Nhạc: Lưu Hữu Phước
Lời: Huỳnh Văn Tiếng, Lưu Hữu Phước

Này anh em ơi tiến lên đến ngày giải phóng
Đồng lòng cùng nhau ra đi sá gì thân sống
Cùng nhau ta tuốt gươm, cùng nhau ta đứng lên
Thù kia chưa trả xong thì ta luôn cố bền

Lầm than bao năm ta đau khổ biết mấy
Vàng đá gấm vóc loài muông thú cướp lấy
Loài nó, chúng lấy máu đào chúng ta
Làm ta gian nan cửa nhà tan rã
Bầu máu nhắc tới nó càng thêm nóng sôi
Ta quyết thề phá tan quân dã man rồi

Vung gươm lên ta quyết đi tới cùng
Vung gươm lên ta thề đem hết lòng
Tiến lên đồng tiến sá chi đời sống
Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng

Này sinh viên ơi đứng lên đáp lời sông núi
Đồng lòng cùng đi đi đi mở đường khai lối
Kìa non sông nước xưa, truyền muôn năm chớ quên
Nào anh em Bắc Nam cùng nhau ta kết đoàn

Hồn thanh xuân như gương trong sáng
Đừng tiếc máu nóng tài xin ráng
Thời khó thế khó khó làm yếu ta
Dù muôn chông gai vững lòng chi sá
Đường mới kíp phóng mắt nhìn xa bốn phương
Tung cánh hồn thiếu niên ai đó can trường

Sinh viên ơi mau tiến lên dưới cờ
Anh em ơi quật cường nay đến giờ
Tiến lên cùng tiến gió tung nguồn sống
Cháy trong lòng ta ngàn mớ lửa hồng

Này thanh niên ơi, tiến lên đến ngày giải phóng
Đồng lòng cùng đi đi đi sá gì thân sống
Nhìn non sông nát tan thù nung tâm chí cao
Nhìn muôn dân khóc than, hờn sôi trong máu đào

Liều thân xông pha ta tranh đấu
Cờ nghĩa phấp phới vàng pha máu
Cùng tiến quét hết những loài dã man
Hầu đem quê hương thoát vòng u ám
Thề quyết lấy máu nóng mà rửa oán chung
Muôn thuở vì núi sông nêu tiếng anh hùng

Anh em ơi mau tiến lên dưới cờ
Sinh viên ơi quật cường nay đến giờ
Tiến lên cùng tiến gió tung nguồn sống
Cháy trong lòng ta ngàn mớ lửa hồng.

Tác giả: Xichloviet
vietmediaagency.com

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tư 4, 2014 in Nhà nước VNCS

 

Nhãn: , , , , , , , , , , , , ,

XUYÊN TẠC, LỪA DỐI, BỊP BỢM CỦA BỌN ĐỘI LỐT NGƯỜI

cxn

Đọc thêm nhé: Vạch trần bộ mặt phản động của “Diễn đàn xã hội dân sự”

Không ai có thể đếm hết được những đầu bếp chuyên chế biến thức ăn cho cờ vàng, nhưng thợ giỏi thì không nhiều, cùng món “rận chó hay là món chiên ghẻ” nhưng mỗi anh chế biến một kiểu, có anh chế biến để hạp khẩu vị con chiên, có anh thêm nếm cho nó hạp cái vị cay cú cờ vàng và thế là đủ để ăn khách, cũng những món này nhưng có anh bị tổ trác, xào nấu nhạt nhẽo lại quá hưng phấn thêm nếm quá tay bởi vậy cứ thối um cả lên, mà ngay cả cờ vàng cực đoan thứ thiệt cũng không thể ngửi nổi và rồi cuối cùng thì quay ra cắn nhau – Vui đáo để.!


Người ta có thể nói dối 1, 2 lần, nhưng không thể nói dối mãi mãi, chính vì vậy ngay từ thời chống Pháp thì thực dân phương Tây vẫn ra rả chính phủ Việt Minh là “độc tài”, “CPVN không dân chủ”, “CS tuyên truyền, “CS ác ôn côn đồ” này nọ nhưng đến ngày hôm nay CSVN vẫn chiến thắng, dân tộc VN đa số vẫn ủng hộ chính quyền của mình, và đất nước VN vẫn cứ đi lên, chó sủa cứ sủa còn VN vẫn đi lên.

Bọn chúng cố sức tàn bám vào quá khứ !

Rõ ràng là có thể lừa 1 người, 2 người, nhưng không thể lừa dối cả một dân tộc. Dân tộc VN với trải nghiệm hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, có khả năng nhận thức chính trị xã hội sâu sắc, biết đánh giá đúng chế độ nào tốt nhất, thích hợp nhất cho mình, đó là do đúc kết, hun đút từ 4000 năm văn hiến và bao nhiêu năm loạn lạc, nội chiến, chống ngoại xâm v.v. Vì thế đừng có giơ những chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “chống Tàu” ra lòe bịp thiên hạ, dân tộc VN không ngu, mỗi người VN tự biết cái gì tốt cho mình. Dân tộc VN thông minh sáng suốt cả ngàn năm nhưng bao giờ cũng có một bộ phận ngu dốt nhưng bệnh hoạn tưởng ta đây là hay, ra nước ngoài đọc báo lá cải tiếng Việt (báo free) đọc những luận điệu chia rẽ,bôi nhọ, vu khống, mạt sát trong nước rồi tưởng đó là hay, tưởng đó là chân lý. Con người khác con vật ở chỗ biết nhận thức, chứ không phải ra hải ngoại đọc những cái mới rồi ngây dại, ngây thơ tin theo rồi nhái lại như một con vẹt. Nhưvậy các chú có khác gì 1 bầy súc vật đâu?

Đây là loại gì ? chúng đang làm gì vậy ?

Từ ngày có Internet thì càng nhiều người hải ngoại không còn bị bưng bít thông tin, bị cha chú CCCĐ của mình nhồi sọ (bên đây bài báo nào đăng những tin tức trung thực, tích cực ở Việt Nam thì sẽ không được đăng, báo bị chụp mũ “thân Cộng” thì sẽ bị những đám lưu manh biểu tình tẩy chay, phá hoại tòa soạn, phá hoại những nơi phát hành các tờ báo như siêu thị, tiệm sách, tiệm video v.v.) Internet mà ban đầu bọn phản quốc Việt gian ngỡ rằng có thể lợi dụng đượcđể chống phá Việt Nam hóa ra lại trở thành một vũ khí, một phương tiện, 1 công cụ hữu dụng để CPVN và những người Việt yêu nước khắp năm châu truyền bá thông tin và dùng chính những ý kiến cá nhân của mình để đập tan và bẻ gãy những luận điệu tuyên truyền bịp bợm mất dạy của CCCĐ. Bộ máy tuyên truyền của tư bản phương Tây, những kẻ chống Cộng phương Tây, chủ nghĩa McCarthy của Mỹ và bọn vẹt Mỹ gốc Việt, Tây gốc Việt ngày càng lỗi thời, lạc hậu cũ kỹ và nhai đi nhai lại, bình mới rượu cũ, lảm nhảm năm này qua tháng nọ đến nỗi người người nhàm chán, ai nấy đều cũng ngáp và buồn ngủ.

Ngay cả ở hải ngoại này thì mọi người cũng chỉ lo đi làm kiếm tiền chứ chẳng ai quan tâm đến chính trị hay chống cộng này nọ. Từ ngày có Internet thì “phong trào rận chó” (bọn nó đội lốt dân chủ nên cư dân mạng gọi trại ra là rân chủ, rận chủ, rận ku, rận chúa, rồi đến “rận chó” nầy, đây là bọn chống dân chủ, phản dân chủ nhưng giả mạo dân chủ để gâu gâu) ngày càng suy giảm rõ rệt, ngày càng không mấy người quan tâm, tranh cãi thì tranh cãi mãi từ năm 2000, nói tới nói lui cũng có bao nhiêu đó, VN vẫn cứ hội nhập và đi lên, chúng có làm được gì đâu? Năm nào cũng bảo “năm nay sẽ là năm cuối cùng của chế độ CSVN”, vụ gì thì cũng là “đây là tử huyệt của ĐCSVN”, “chúng ta sẽ đào mồ chôn chủ nghĩa xã hội ở VN” v.v. Tự sướng và hoang tưởng, điên cuồng, ngu dốt đến mức tội nghiệp, hết thuốc chữa.

4820735536Chúng là giống gì ?

Các bạn thử so sánh phong trào chống cộng, phong trào “rận chó” của những thập niên 1980, 1990 và hiện nay xem sao, khác xa 1 trời 1 vực, càng ngày thì chẳng còn bao nhiêu người chống Cộng, trước thì phong trào cũng mạnh lắm, rầm rộ lắm, nhưng ngày càng như 1 đống giẻ rách nát, quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh, ngày càng chẳng ra gì.

Ngày nay chúng nó cũng chỉ thu mình nấp sau Internet, giấu mặt tuyên truyền chửi bới đất nước để thỏa mãn thú tính rân chủ (còn gọi là rận chó). Những tín đồ rân chủ (rận chó) này thì càng lúc càng không ai xem chúng nó là những con người. Chúng chưa đủ tư cách làm người. Chúng nhiều khi chẳng khác gì 1 bầy súc vật lạc lõng đáng thương. Các “lý luận” về rận chủ, rận chó này nọ của chúng cũng ngày càng bị khủng hoảng, chắp vá rất vui, mâu thuẫn chan chát, chẳng đâu vào đâu, thời gian gần đây nhiều bài nghiên cứu, giáo trình của chủ nghĩa Marx Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, CNXH, CNCS được đưa lên mạng bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh của những người cộng sản nước ngoài thì chúng như bịbịt mõm chẳng nói được câu nào ra hồn, vì chúng nhận ra rằng từ trước đến nay chúng chẳng biết gì về những học thuyết trên mà toàn nghe hơi nồi chõ.

Chúng tuyệt vọng nhưng vẫn kêu gào chống cộng !

Nghe đồng bọn rận của chúng bảo CS ngu, CS ác, CS độc tài rồi chúng nó theo tâm lý bầy đàn của loài vật, theo kiểu chó hùa cũng nhái vẹt theo “CS ngu”, “CS ác”, “CSđộc tài” v.v. mà thật ra chúng có biết gì đâu, chúng như những con ếchđáng thương nằm dưới cái giếng ngu dốt của mình với những cảm tính thù hằn, hận thù chống Cộng hẹp hòi cố chấp và ngoan cố.

Mấy năm trước thì bàn dân thiên hạ còn ít nhiều xem chúng là người, và chịu khó giảng giải, giải thích, phân tích này nọ cho chúng hiểu, cố gắng dạy dỗ chúng, truyền đạt những kiến thức đúng về lịch sử, chính trị, xã hội, kinh tế cho chúng. Nhưng giờ đây thì hầu như còn rất ít người xem chúng là người. Bằng chứng là các nicknames mà cư dân mạng, cộng đồng mạng đặt cho chúng và dùng để tả chúng ngày nay như , “rận chủ”, “rận chó” thì chúng ta đều thấy bóng dáng các loài động vật trong đó. Tức là chúng ngày càng bị động vật hóa, gia súc hóa, cầm thú hóa bởi chính đồng bào của chúng. Nếu bọn CCCĐ này không sớm tỉnh ngộ thì thời gian dần trôi, chúng sẽ trước sau gì cũng trở thành một loài sinh vật biết nói, một giống thú đội lốt người thật sự.

Houston tháng 3-2012
Amari tx

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tư 3, 2014 in Tham nhũng

 

Nhãn: , , , , , , , , , , , , ,

BÀI HỌC CHO CỜ VÀNG CHỐNG CỘNG

cxn

Đọc thêm nhé: Vạch trần bộ mặt phản động của “Diễn đàn xã hội dân sự”

Không ai có thể đếm hết được những đầu bếp chuyên chế biến thức ăn cho cờ vàng, nhưng thợ giỏi thì không nhiều, cùng món “rận chó hay là món chiên ghẻ” nhưng mỗi anh chế biến một kiểu, có anh chế biến để hạp khẩu vị con chiên, có anh thêm nếm cho nó hạp cái vị cay cú cờ vàng và thế là đủ để ăn khách, cũng những món này nhưng có anh bị tổ trác, xào nấu nhạt nhẽo lại quá hưng phấn thêm nếm quá tay bởi vậy cứ thối um cả lên, mà ngay cả cờ vàng cực đoan thứ thiệt cũng không thể ngửi nổi và rồi cuối cùng thì quay ra cắn nhau – Vui đáo để.!


Bọn chống cộng cực đoan người Việt ở hải ngoại đã điên cuồng chống phá đất nước 38 năm qua, chúng là loại gì khi những người Việt yêu nước vẫn chưa đặt cho bọn chúng một cái tên cho đúng nghĩa – Nếu chúng muốn được gọi là con người thì hãy đọc bài nói chuyện của Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã qua 13 năm nhưng thông điệp vẫn còn nguyên giá trị về giáo dục với chúng.

Tổng Thống thứ 42 của Hoa Kỳ .

“Let the days when we talk past each other be gone for good. Let us acknowledge our importance to one another. Let us continue to help each other heal the wounds of war, not by forgetting the bravery shown and the tragedy suffered by all sides, but by embracing the spirit of reconciliation and the courage to build better tomorrows for our children. May our children learn from us that good people, through respectful dialogue, can discover and rediscover their common humanity, and that a painful, painful past can be redeemed in a peaceful and prosperous future – Hãy chấm dứt vĩnh viễn những ngày tháng khi chúng ta nói át lẫn nhau. Hãy công nhận vai trò quan trọng của mỗi bên. Chúng ta hãy tiếp tục giúp nhau hàn gắn những vết thương chiến tranh, không phải bằng cách quên đi sự dũng cảm cũng như những thảm kịch của các bên, mà bằng tinh thần hoà giải và sự can đảm để xây dựng một tương lai xán lạn hơn cho con em chúng ta“.

Bài phát biểu Tổng thống Bill Clinton tại Đại học Quốc gia Hà Nội

Cám ơn các bạn rất nhiều và chào các bạn.

Tôi không thấy có một nơi nào thích hợp hơn là Ðại học Quốc gia Việt Nam để tôi bắt đầu chuyến thăm ở thời điểm tràn đầy hy vọng của lịch sử cho cả hai nước chúng ta. Tôi đã học được một câu tiếng Việt; và tôi sẽ cố gắng đọc câu ấy. Nếu tôi đọc sai, các bạn cứ cười thỏa thích. Xin chào các bạn. (vỗ tay)

Biết bao hứa hẹn của quốc gia trẻ trung này được tích luỹ nơi đây. Tôi được biết rằng các bạn đã có những chương trình trao đổi với gần 100 các trường đại học, từ Canada đến Pháp và Hàn Quốc. Và các bạn cũng đang tiếp đón hơn 12 sinh viên từ trường đối tác – Ðại học California Hoa Kỳ – hiện đang học tại đây.

Tôi chào mừng những nỗ lực to lớn của các bạn trong việc hoà nhập với thế giới. Dĩ nhiên, tôi cũng biết rằng cũng như mọi sinh viên khắp nơi, các bạn còn bận tâm nhiều chuyện khác ngoài việc đèn sách. Ví dụ: vào tháng 9, các bạn vừa phải học và vừa theo dõi thành tích của cô Trần Hiếu Ngân tại Sydney . Và tuần này, các bạn lại vừa học vừa cổ vũ cho các anh Lê Huỳnh Ðức và Nguyễn Hồng Sơn tại cuộc tranh tài bóng đá tại Bangkok . (vỗ tay).

Tôi lấy làm hân hạnh là Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ đầu tiên đến Hà Nội và thăm trường đại học này. Và tôi làm như thế với một ý thức rằng lịch sử giữa hai quốc gia chúng ta thật gắn bó, vừa là nguồn đau thương cho các thế hệ đã qua vừa là nguồn hứa hẹn cho các thế hệ sắp tới.

Cách đây 2 thế kỷ, trong những ngày đầu của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, chúng tôi đã vượt biển để tìm các đối tác thương mại và một trong các nước mà chúng tôi tiếp cận đầu tiên là Việt Nam. Thật vậy, một trong các nhà lập quốc của Hoa Kỳ, Ngài Thomas Jefferson, đã tìm cách mua hạt giống gạo Việt Nam để trồng trên nông trại của mình tại Virginia cách đây đã 200 năm. Vào lúc thế chiến thứ hai xảy ra, Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã là một xứ tiêu thụ đáng kể các hàng xuất khẩu từ Việt Nam .

Vào năm 1945, trong ngày lập quốc của các bạn, những ngôn từ của Thomas Jefferson đã được chọn để vang vọng trong bản Tuyên ngôn Ðộc lập của các bạn: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá đã cho chúng ta những quyền chắc chắn không thể xâm phạm được; đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”

Dĩ nhiên, tất cả những điểm gặp gỡ nhau trong lịch sử 200 năm nay đã bị lu mờ trong vài thập niên vừa qua bởi cuộc xung đột mà chúng tôi gọi là Chiến tranh Việt Nam và các bạn gọi là Kháng chiến chống Mỹ. Hẳn là các bạn đã biết rằng ở Washington D.C., tại Quảng trường Quốc gia có một bức tường đá đen đã được khắc tên của những người Hoa Kỳ đã bỏ mình tại Việt Nam. Tại tượng đài trang nghiêm này, một số cựu chiến binh Hoa Kỳ cũng nhắc đến “mặt bên kia của bức tường,” sự hy sinh chồng chất của nhân dân Việt Nam hai miền trong cuộc xung đột đó – hơn 3 triệu thường dân và chiến sỹ dũng cảm.

Nỗi đau khổ chung này đã tạo cho hai quốc gia chúng ta một mối quan hệ không giống bất cứ quan hệ nào khác. Cũng do cuộc xung đột này, Hoa Kỳ hiện nay là quê hương của 1 triệu người Mỹ có tổ tiên là Việt Nam . Cũng do cuộc xung đột này, 3 triệu cựu chiến binh Hoa Kỳ đã phục vụ tại Việt Nam , cũng như nhiều nhà báo, nhân viên đại sứ quán, nhân viên cứu trợ và nhiều người khác nữa, đã mãi mãi gắn liền với quốc gia của các bạn.

Cách đây gần 20 năm, một nhóm quân nhân Hoa Kỳ đã đi bước đầu tiên để tái lập những mối liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam . Họ trở lại Việt Nam lần đầu tiên kể từ cuộc chiến, và khi họ đi bộ trên những đường phố Hà Nội, nhiều người Việt Nam biết họ đến thăm và đã tiến lại hỏi họ: các bạn có phải là binh sĩ Hoa Kỳ không? Chưa ngờ trước chuyện gì sẽ xảy ra đối với họ, những cựu chiến binh của chúng tôi trả lời: Ðúng vậy. Và họ cảm thấy thật nhẹ nhõm xiết bao khi những người Việt Nam nói với họ một cách giản dị là: chào mừng các bạn đến Việt Nam .

Tiếp đó, nhiều cựu chiến binh cũng đã đến đây gồm cả những cựu chiến binh và anh hùng Hoa Kỳ tên tuổi hiện đang phục vụ tại Quốc hội Hoa Kỳ: Nghị sỹ John McCain, Nghị sỹ Bob Kerrey, Nghị sỹ Chuck Robb, và Nghị sỹ John Kerry của bang Massachusett, là người có mặt tại đây với tôi, cùng một số hạ nghị sĩ của chúng tôi, trong số đó có vài cựu chiến binh của cuộc xung đột ở Việt Nam.

Khi họ đến đây, họ đã nhất quyết tôn vinh những người đã tham chiến mà không khơi lại cuộc chiến; nhớ lại lịch sử của chúng ta nhưng không kéo dài nó mãi mãi; để cho lớp trẻ như các bạn tại hai quốc gia chúng ta có một cơ hội sống vì tương lai, chứ không phải sống với quá khứ. Như Ðại sứ Pete Peterson đã nói một cách thật hùng hồn, “Chúng ta không thể thay đổi quá khứ. Cái mà chúng ta có thể thay đổi được đó là tương lai.”

Mối quan hệ mới giữa chúng ta trở nên mạnh hơn, khi các cựu chiến binh Hoa Kỳ thành lập những tổ chức phi lợi nhuận để hoạt động giúp đỡ nhân dân Việt Nam, chẳng hạn như cung cấp những dụng cụ cho những người bị thương tích chiến tranh để giúp họ sống một cuộc sống bình thường. Sự tận tình của Việt Nam giúp trao trả hài cốt những quân nhân của chúng tôi trở về với gia đình họ là sự thúc đẩy lớn nhất để cải thiện mối quan hệ. Có rất nhiều người Hoa Kỳ tại đây đã làm việc nhiều năm trong lĩnh vực đó, gồm cả Bộ trưởng Bộ Cựu Chiến Binh của chúng tôi, Ngài Hershel Gober.

Lòng mong muốn được đoàn tụ với thân nhân thất lạc là điều dễ hiểu đối với tất cả chúng ta. Nhiều người Mỹ rất cảm động khi biết rằng chương trình truyền hình mà người Việt Nam xem nhiều nhất vào mỗi chủ nhật là chương trình nhờ khán giả giúp họ tìm kiếm những thân nhân mất tích trong chiến tranh cách đây rất lâu.

Và chúng tôi biết ơn những người dân làng Việt Nam đã giúp tìm kiếm những người mất tích của chúng tôi và vì thế đem lại sự ổn định tinh thần cho những gia đình người Mỹ khi họ biết rằng chuyện gì thật sự đã xảy ra đối với thân nhân của họ.

Chưa bao giờ có hai quốc gia nào đã làm được những việc mà chúng ta cùng nhau đang làm để tìm kiếm những người mất tích trong cuộc xung đột ở Việt Nam . Rất nhiều đội Hoa Kỳ và Việt Nam đã làm việc cùng nhau, đôi khi tại những nơi chốn khó khăn và nguy hiểm. Chính phủ Việt Nam đã cung cấp cho chúng tôi những tài liệu và thông tin của chính phủ để hỗ trợ cuộc tìm kiếm của chúng tôi. Và để đáp lại, chúng tôi đã cung cấp được cho Việt Nam gần 400.000 trang tài liệu có thể trợ giúp cuộc tìm kiếm của các bạn. Trong chuyến thăm này, tôi mang thêm 350.000 trang tài liệu mà tôi hy vọng sẽ giúp các gia đình Việt Nam tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy đến với những thân nhân thất lạc của họ.

Hôm nay, tôi đã trân trọng trao cho Chủ tịch nước của các bạn, Ngài Trần Ðức Lương những tài liệu này. Tôi cũng nói với chủ tịch rằng Hoa Kỳ sẽ cung cấp thêm 1 triệu trang tài liệu nữa trước cuối năm nay. Chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp trợ giúp và kêu gọi sự giúp đỡ của các bạn, khi cả đôi bên giữ lời cam kết là làm bất cứ việc gì chúng ta có thể làm được cho đến khi nào đạt được một thống kê đầy đủ nhất về thân nhân của
chúng ta.

Sự hợp tác của các bạn trong sứ mạng đó qua 8 năm nay đã được đáp lại bằng việc Hoa Kỳ hỗ trợ Việt Nam những khoản vay quốc tế, tái lập thương mại giữa hai quốc gia chúng ta, thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức và đã ký Hiệp định Thương mại trọng yếu vào năm nay.

Sau cùng, chúng tôi xem Việt Nam như một quốc gia, chứ không phải như một cuộc chiến tranh như các bạn đã yêu cầu trong bao nhiêu năm qua. Một quốc gia với tỷ lệ dân biết chữ cao nhất ở Ðông Nam á; một quốc gia mà giới trẻ vừa đoạt được ba huy chương vàng tại cuộc thi Toán học Olympiad Quốc tế Seoul; một quốc gia của những doanh gia tài năng, tận tuỵ đang xuất hiện sau những năm xung đột và bất ổn, và hướng tới một tương lai xán lạn.

Hôm nay, Hoa Kỳ và Việt Nam bắt đầu một giai đoạn mới trong mối quan hệ đôi bên, vào lúc khi mọi người trên toàn thế giới buôn bán với nhau nhiều hơn, đi lại nhiều hơn, biết nhau nhiều hơn và nói chuyện với nhau nhiều hơn bao giờ hết. Vào lúc khi mọi người tự hào về nền độc lập quốc gia của mình, thì chúng ta đều biết rằng chúng ta đang trở nên ngày càng lệ thuộc lẫn nhau hơn. Sự di chuyển của con người, tiền tài và ý tưởng xuyên biên giới, thành thật mà nói, đã tạo ra những sự ngờ vực giữa những công dân tốt thuộc mọi quốc gia. Họ lo lắng về xu hướng toàn cầu hoá do những hậu quả bất ổn và không lường trước được.

Tuy vậy, xu hướng toàn cầu hoá không phải là một thứ mà chúng ta có thể ngăn cản hoặc loại trừ được. Sự kiện kinh tế này tương đương với lực của thiên nhiên như gió hoặc nước. Chúng ta có thể dồn gió cho căng buồm. Chúng ta có thể dùng nước để tạo ra năng lượng. Chúng ta có thể cố gắng chống lại bão và lũ lụt để bảo vệ nhân dân và tài sản. Nhưng chúng ta chẳng thể nào phủ nhận sự hiện hữu của gió và nước, hoặc tìm cách loại chúng. Xu hướng toàn cầu hoá cũng thế. Chúng ta có thể nỗ lực để tối đa hoá cái lợi của nó và giảm thiểu những rủi ro, nhưng chúng ta không thể làm ngơ trước xu hướng này và nó cũng sẽ không tự biến mất.

Trong thập niên qua, khi khối lượng thương mại trên thế giới đã tăng gấp đôi, số lượng đầu tư từ những quốc gia giàu vào những quốc gia đang phát triển đã tăng gấp sáu lần, từ 25 tỷ đô la vào năm 1990 lên đến hơn 150 tỷ đô-la vào năm 1998. Những quốc gia đã mở cửa nền kinh tế của họ trong hệ thống thương mại quốc tế đã tăng trưởng nhanh ít nhất gấp đôi so với những quốc gia có nền kinh tế khép kín. Công ăn việc làm của các bạn trong tương lai rất có thể tuỳ thuộc vào thương mại và đầu tư của nước ngoài. Nói đến đây tôi chợt nghĩ, chỉ còn 8 tuần nữa tôi sẽ mãn nhiệm, tôi nghĩ là việc làm sau này của tôi rất có thể tuỳ thuộc vào thương mại và đầu tư nước ngoài.

Trong 15 năm qua, Việt Nam đã thực hiện chính sách Ðổi Mới, gia nhập APEC và ASEAN, bình thường hoá quan hệ với Cộng đồng Châu Âu và Hoa Kỳ, và giải thể hợp tác xã nông nghiệp, để nông dân tự do trồng trọt những gì họ muốn và thu nhập trên chính thành quả lao động của họ. Những kết quả này là minh chứng hùng hồn nhất về sức mạnh của các thị trường của các bạn và các khả năng của nhân dân các bạn. Các bạn không chỉ khống chế được tình trạng suy dinh dưỡng mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới và đã đạt được sự phát triển kinh tế toàn diện mạnh mẽ hơn.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế có chậm lại và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có giảm đi. Ðiều này cho thấy rằng bất kỳ một nỗ lực nào nhằm tránh xa khỏi những rủi ro của một nền kinh tế toàn cầu thì đồng thời cũng khiến mình không được thừa hưởng những phần thưởng cũng từ đó mà có.

Vào mùa hè năm nay, Ngài Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã nói, và tôi xin được trích dẫn nguyên văn: “Chúng tôi chưa đạt được tầm phát triển xứng với các khả năng của đất nước chúng tôi. Và chỉ có một cách duy nhất là mở cửa hơn nữa nền kinh tế.” Nên trong mùa hè năm nay, điều mà tôi tin tưởng sẽ được xem là một bước trọng yếu trên con đường các bạn tiến tới sự thịnh vượng trong tương lai, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký một hiệp định thương mại song phương có tính lịch sử, xây dựng một nền tảng để Việt Nam cuối cùng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.

Theo Hiệp định này, Việt Nam sẽ cho phép các công dân của mình, và dần dần sẽ cho phép công dân của các nước khác, các quyền được nhập khẩu, xuất khẩu và phân phối hàng hoá; cho người dân Việt Nam các quyền mở rộng để quyết định vận mệnh kinh tế của chính họ. Việt Nam đã đồng ý sẽ đưa ra các quyết định quan trọng của mình theo nền pháp trị và hệ thống thương mại quốc tế, tăng cường nguồn thông tin tới mọi người dân, và đẩy mạnh sự thăng tiến của nền kinh tế tự do và khu vực kinh tế tư nhân.

Tất nhiên, điều này sẽ tốt cho các đối tác nước ngoài của Việt Nam cũng như Hoa Kỳ. Nhưng nó sẽ còn tốt hơn nữa cho các doanh nhân Việt Nam, là những người đang nỗ lực xây dựng việc kinh doanh của chính họ. Theo hiệp định này, theo tin Ngân hàng Thế giới, Việt Nam có thể thu được thêm 1,5 tỷ đô-la Mỹ mỗi năm và hàng năm chỉ riêng từ hàng xuất khẩu.

Cả hai quốc gia chúng ta đều ra đời từ một bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập. Bản Hiệp định Thương mại này là một dạng của Bản Tuyên Ngôn Lệ Thuộc Lẫn Nhau, một lời tuyên bố rõ ràng và không mập mờ rằng sự phồn vinh trong thế kỷ 21 tuỳ thuộc vào sự giao lưu kinh tế của một quốc gia với thế giới.

Sự mở rộng mới này là một cơ hội to lớn cho các bạn. Nhưng nó chưa đảm bảo thành công. Vậy thì phải làm những gì khác? Việt Nam là một quốc gia trẻ trung, với 60% dân số dưới tuổi 30, và mỗi năm có 1,4 triệu người tham gia lực lượng lao động. Những vị lãnh đạo của các bạn hiểu rằng chính phủ và các công ty quốc doanh không thể mỗi năm tạo ra 1,4 triệu việc làm mới. Họ biết rằng những ngành công nghiệp thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu hôm nay, như máy tính, viễn thông, công nghệ sinh học, là những ngành dựa trên kiến thức. Ðó là lý do tại sao những nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng nhanh hơn khi giới trẻ được học cao hơn, khi phụ nữ có những cơ hội được đi học như nam giới, khi những người trẻ như các bạn có mọi cơ hội khảo sát những ý tưởng mới rồi chuyển những ý tưởng đó thành những cơ hội kinh doanh cho chính mình.

Quả thực như vậy, tất cả các bạn có mặt tại hội trường này ngày hôm nay phải là động lực tạo nên sự phồn vinh của Việt Nam trong tương lai. Như Chủ tịch nước Trần Ðức Lương đã tuyên bố, nội lực của một quốc gia là trí tuệ và năng lực của nhân dân.

Hoa Kỳ hết sức khâm phục trí tuệ và năng lực của các bạn. Một trong những chương trình trao đổi giáo dục lớn nhất của chính phủ chúng tôi là với Việt Nam . Và chúng tôi muốn tăng thêm nữa. Thượng nghị sỹ Kerry có mặt tại đây, và tôi đã nhắc đến ông trước đó, đang dẫn đầu cho một nỗ lực tại Quốc hội Hoa Kỳ, ông cùng với Thượng nghị sỹ John McCain và những cựu chiến binh khác của cuộc xung đột tại đây, đang hoạt động nhằm thiết lập một tổ chức mới gọi là Quỹ Giáo dục Việt Nam. Một khi được thông qua, quỹ này sẽ hỗ trợ 100 học bổng hàng năm, tại đây hoặc tại Hoa Kỳ, cho những người nghiên cứu hoặc giảng dạy khoa học, toán, công nghệ và y khoa.

Bây giờ chúng tôi đã sẵn sàng tài trợ thêm cho những chương trình trao đổi để dự án này có thể được thực hiện ngay. Tôi hy vọng một số người trong các bạn sẽ có cơ hội tham gia. Và tôi cảm ơn Thượng nghị sỹ Kerry vì ý tưởng tốt đẹp này. Cảm ơn Ngài vì những gì Ngài đã thực hiện.

Tôi muốn nói, cái cũng quan trọng như kiến thức chính là cái lợi của kiến thức, mà cái lợi này thì bị hạn chế bởi những giới hạn thái quá trong việc sử dụng kiến thức. Người Mỹ chúng tôi tin tưởng ở sự tự do được tìm tòi, du lịch, suy nghĩ, phát biểu, định hướng những quyết định tác động đến cuộc sống của chúng tôi làm phong phú cuộc sống của mọi người và mọi quốc gia mà trong nhiều khía cạnh vượt ra xa ngoài phạm vi kinh tế.

Cho đến nay, thành tích của Hoa Kỳ trong lĩnh vực này vẫn chưa được hoàn hảo. Rút cuộc, chúng tôi phải mất một thế kỷ mới xoá bỏ được nô lệ. Việc giành quyền bầu cử cho phụ nữ thì phải mất một thời gian dài hơn thế nữa. Và chúng tôi vẫn đang tìm tòi để thực hiện một liên bang hoàn hảo hơn theo ước mơ của những nhà lập quốc của chúng tôi và những ngôn từ trong Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập và Hiến pháp của chúng tôi. Nhưng trong suốt 224 năm qua, chúng tôi đã học được một vài bài học. Thí dụ, chúng tôi đã thấy rằng những nền kinh tế hoạt động tốt hơn khi báo chí được tự do tố cáo tham nhũng, và những toà án độc lập có thể đảm bảo cho các hợp đồng được tôn trọng, sự cạnh tranh được tiến triển mạnh mẽ và công bằng, và các quan chức nhà nước tôn trọng nền pháp trị.

Theo kinh nghiệm của chúng tôi, việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền bất đồng chính kiến không đe doạ sự ổn định của một xã hội. Ngược lại, nó tạo được niềm tin của người dân vào sự công bằng của hiến pháp của chúng ta, và khiến chúng ta phải thực hiện hiến pháp mặc dù chúng ta không đồng ý một quyết định nào đó. Tất cả những điều này sẽ làm cho đất nước của chúng ta mạnh hơn trong các thời điểm tốt hoặc xấu. Theo kinh nghiệm chúng tôi, giới trẻ sẽ có nhiều niềm tin hơn vào tương lai nếu họ có tiếng nói trong việc định hướng tương lai, trong việc lựa chọn các nhà lãnh đạo chính phủ của họ và có một chính phủ có trách nhiệm đối với những người dân mà chính phủ phục vụ.

Bây giờ, tôi xin nhấn mạnh rằng, chúng tôi không tìm cách và cũng không thể áp đặt những ý tưởng này. Việt Nam là một đất nước lâu đời và bền vững. Các bạn đã chứng tỏ với thế giới rằng các bạn sẽ tự quyết định cho chính mình. Chỉ các bạn mới có thể quyết định với những việc chẳng hạn như có nên chăng tiếp tục chia xẻ những tài năng và ý tưởng của Việt Nam với thế giới; có nên chăng tiếp tục mở cửa Việt Nam để làm giầu đất nước mình với những kinh nghiệm của các nước khác. Chỉ có các bạn mới quyết định xem có nên chăng tiếp tục mở cửa thị trường, mở cửa xã hội của mình và củng cố nền pháp trị. Chỉ có các bạn mới quyết định liên kết như thế nào giữa tự do cá nhân và nhân quyền trên nền tảng giầu mạnh của bản sắc quốc gia Việt Nam .

Tương lai của các bạn đang nằm trong đôi bàn tay của mình, đôi bàn tay của nhân dân Việt Nam. Nhưng tương lai của các bạn cũng quan trọng đối với chúng tôi. Vì khi Việt Nam thành công, việc ấy sẽ mang lại lợi ích cho khu vực này cùng các đối tác kinh doanh và những người bạn của các bạn trên toàn thế giới.
Chúng tôi mong muốn được tăng cường sự hợp tác với các bạn trên mọi phương diện. Chúng tôi muốn tiếp tục việc rà soát mìn và những vũ khí chưa nổ. Chúng tôi muốn tăng cường những nỗ lực chung của chúng ta để bảo vệ môi trường bằng cách huỷ bỏ xăng pha chì tại Việt Nam , duy trì nguồn cung cấp nước sạch, cứu nguy những dải san hô và rừng nhiệt đới. Chúng tôi muốn tăng cường nỗ lực trong việc ngăn ngừa và cứu trợ thiên tai, gồm cả những nỗ lực trợ giúp những người bị nguy khốn vì lũ lụt tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hôm qua, chúng tôi đã trao cho chính phủ các bạn những bức ảnh vệ tinh từ Hệ thống Thông tin Thiên tai Toàn cầu của chúng tôi – những bức ảnh này cho thấy những chi tiết mới nhất về mức độ lũ lụt tại vùng đồng bằng để trợ giúp Việt Nam trong việc tái thiết.

Chúng tôi muốn tăng cường sự hợp tác trong lĩnh vực khoa học, sự hợp tác được chú trọng trong cuộc họp của chúng ta tại Singapore vào tháng này để cùng nhau nghiên cứu những tác động về sức khoẻ và môi sinh của chất đi-ô-xin đối với người Việt Nam và người Mỹ đã có mặt tại Việt Nam; và sự hợp tác mà chúng ta đang mở rộng hơn trên cơ sở Hiệp định Khoa học và Công nghệ mà hai quốc gia chúng ta vừa ký hôm nay.
Chúng tôi muốn là đồng minh của các bạn trong việc phòng chống những căn bệnh gây tử vong chẳng hạn như AIDS, lao và sốt rét. Tôi vui mừng tuyên bố rằng chúng tôi sẽ tăng gấp đôi sự hỗ trợ của chúng tôi cho những nỗ lực của Việt Nam để ngăn chặn nguy cơ của nạn dịch AIDS bằng công tác giáo dục, phòng ngừa, săn sóc và chữa trị. Chúng tôi muốn làm việc với các bạn để đưa Việt Nam thành nơi an toàn hơn bằng cách hỗ trợ các bạn để giảm thiểu những thương tích trên đường phố, ở nhà và tại nơi làm việc. Chúng tôi muốn làm việc với các bạn để tận dụng bản Hiệp định Thương mại này, bằng cách cung cấp sự trợ giúp kỹ thuật để đảm bảo sự thực thi bản Hiệp định thật trôi chảy và đầy đủ, tìm kiếm những phương thức khuyến khích hơn nữa sự đầu tư của Hoa Kỳ nhiều hơn vào quốc gia các bạn.

Tóm lại, chúng tôi mong muốn xây dựng quan hệ đối tác với Việt Nam . Chúng tôi tin rằng việc này sẽ tốt cho cả hai quốc gia. Chúng tôi tin tưởng rằng nhân dân Việt Nam có tài năng để thành công trong thời đại toàn cầu mới này cũng như họ đã thành công trong quá khứ.

Chúng tôi biết vậy, vì chúng tôi đã thấy những tiến bộ các bạn đã đạt được trong thập niên vừa qua. Chúng tôi đã thấy tài năng và sự tháo vát của những người Việt Nam đến cư ngụ tại Hoa Kỳ. Những người Mỹ gốc Việt đã trở thành những quan chức dân cử, chánh án, những nhà lãnh đạo trong lĩnh vực khoa học và trong ngành công nghệ cao. Năm ngoái, một người Mỹ gốc Việt đã có một phát minh toán học làm cho việc điều khiển hội họp từ xa bằng truyền hình với chất lượng cao trở thành dễ dàng hơn. Mọi người ở Hoa Kỳ đều biết đến trường hợp Trần Như Hoàng tốt nghiệp thủ khoa trong khoá học của anh ta tại Trường Võ bị Không quân Hoa Kỳ.

Những người Hoa Kỳ gốc Việt thành đạt không chỉ vì những khả năng độc đáo và tư chất tốt của họ, mà còn vì họ đã có cơ hội để tận dụng khả năng và giá trị của họ. Khi những cơ hội của các bạn tăng lên trong cuộc sống, trong học hỏi, trong việc thể hiện óc sáng tạo, thì không có gì có thể ngăn cản được sự tiến bộ của người Việt Nam. Tôi tin chắc rằng các bạn sẽ thấy nhân dân Hoa Kỳ luôn sát cánh với các bạn. Bởi vì trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau này, thành công của các bạn cũng thật sự là thành công của chúng tôi.

Cách đây gần 200 năm, vào khởi điểm của mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam , hai quốc gia chúng ta đã cố gắng nhiều để đàm phán một Hiệp định Thương mại, tương tự như Hiệp định Thương mại mà chúng ta đã ký hôm nay. Nhưng cách đây 200 năm, những cuộc đàm phán này đều thất bại, và không một hiệp định nào được ký. Hãy nghe lời phát biểu của một sử gia nói về chuyện gì đã xảy ra cách đây 200 năm, và thử nghĩ xem trong hai thế kỷ nay, câu nói này đáng ra phải được nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần rồi. Ông ta nói rằng: “Những nỗ lực này đã thất bại vì hai nền văn hoá xa lạ đã cùng lên tiếng mà không chịu lắng nghe nhau, và tầm quan trọng của bên này đối với bên kia không đủ sức thuyết phục để vượt qua những trở ngại này.”

Hãy chấm dứt vĩnh viễn những ngày tháng khi chúng ta nói át lẫn nhau. Hãy công nhận vai trò quan trọng của mỗi bên. Chúng ta hãy tiếp tục giúp nhau hàn gắn những vết thương chiến tranh, không phải bằng cách quên đi sự dũng cảm cũng như những thảm kịch của các bên, mà bằng tinh thần hoà giải và sự can đảm để xây dựng một tương lai xán lạn hơn cho con em chúng ta.

Mong rằng con em chúng ta sẽ học được ở chúng ta bài học cho thấy rằng: là những con người thiện chí và thông qua những cuộc đối thoại tôn trọng lẫn nhau, người ta có thể phát hiện và tái phát hiện tính nhân văn chung cho cả hai phía và một quá khứ thật đau thương có thể được bù đắp trong một tương lai hoà bình và thịnh vượng.

Cám ơn các bạn đã chào đón tôi, gia đình tôi và những thành viên trong đoàn Hoa Kỳ đến Việt Nam.

Cám ơn lòng tin vào tương lai của các bạn.

Chúc các bạn sức khoẻ và thành công.

Ngày 17-11-2000. Nguồn TTXVN (Tham khảo đặc biệt)

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tư 3, 2014 in Chính trị

 

Nhãn: , , , , , , , , , , , ,

BẢN NĂNG PHẢN XẠ CỦA CỜ VÀNG

cxn

Đọc thêm nhé: Vạch trần bộ mặt phản động của “Diễn đàn xã hội dân sự”

Không ai có thể đếm hết được những đầu bếp chuyên chế biến thức ăn cho cờ vàng, nhưng thợ giỏi thì không nhiều, cùng món “rận chó hay là món chiên ghẻ” nhưng mỗi anh chế biến một kiểu, có anh chế biến để hạp khẩu vị con chiên, có anh thêm nếm cho nó hạp cái vị cay cú cờ vàng và thế là đủ để ăn khách, cũng những món này nhưng có anh bị tổ trác, xào nấu nhạt nhẽo lại quá hưng phấn thêm nếm quá tay bởi vậy cứ thối um cả lên, mà ngay cả cờ vàng cực đoan thứ thiệt cũng không thể ngửi nổi và rồi cuối cùng thì quay ra cắn nhau – Vui đáo để.!


Khi cần tập hợp nhau thì biện pháp kích động là bước khởi động không thể thiếu của dân cờ vàng, nhằm kích thích “phản xạ cờ vàng” – tập hợp số đông cùng hội cùng thuyền – biểu dương lực lượng, để hù dọa trấn áp đối phương bảo vệ bầy đàn. Nó giống y như tiếng tru tiếng hú để thông tin với nhau của các loài động vật hoang dã nhằm cảnh báo mối nguy hiểm đang xuất hiện đe dọa chúng.

Không kích động nhau cờ vàng chắc chắn sẽ tan rã.

Việc báo động lâm nguy trong thế giới bầy đàn hoang dã từ xa xưa đã là điều rất tự nhiên và cần thiết, đó là quá trình tiến hóa hàng triệu năm của loài vật. Nó rất hữu ích trong việc bảo vệ sự tồn tại của giống nói, nó là bản năng di truyền, nó ăn vào máu biết bao thế hệ để tạo thành phản xạ nhằm đối phó với những hiểm nguy của thế giới xung quanh.

Khi con người tiến hóa làm bá chủ thiên nhiên, thống trị thế giới muôn loài, không còn kẻ thù từ thế giới hoang dã, mối hiểm nguy từ các giống loài khác không còn, phản xạ bầy đàn của con người đã thoái hóa. Tàn tích của phản xạ chỉ còn là sự giật mình khi có tiếng động bất thường.

Có một nghịch lý là dân cờ vàng mấy chục năm qua lại ra sức tạo ra những phản xạ bầy đàn đã thoái hóa của con người cho chính bầy đàn của mình để xù lông với đồng loại.

Giống như thế giới thiên nhiên hoang dã, dân cờ vàng rất lo sợ cho sự tồn tại của bầy đàn mình cho nên mấy chục năm qua họ đã tạo được sự phản xạ rất đặc biệt, rất nhậy bén, không giống ai mà ta chỉ có thể đặt tên là “phản xạ cờ vàng“.

Nếu so sánh với loài vật hoang dã thì nó không khác tí nào cả. Cũng lo sợ hiểm nguy, cũng ra sức tạo hiệu ứng báo động dây chuyền trong bầy đàn, cũng phát đi những tín hiệu báo động về “nguy cơ” và cũng sử dụng đám đông nhe răng xù lông để uy hiếp đối thủ. Nó rất đặc trưng không thể lầm lẫn với bất cứ cộng đồng nào, nhưng nó khác loài động vật hoang dã một chút ở chỗ cờ vàng kích động nhau không đơn thuần chỉ là tru lên tiếng báo động hiểm nguy mà họ luôn phóng đại cường điệu quá mức sự nguy hiểm.

Cờ vàng nhận thức rằng cường điệu phóng đại bóp méo để kích động sẽ đánh động bầy đàn tốt hơn, quy tụ nhau được nhiều hơn, gia tăng được sức mạnh bầy đàn hơn và cảm thấy bình an, nhẹ nhõm khi quần tụ được đám đông cùng nhau xù lông khoe nanh vuốt. Họ thừa biết rằng xù lông để trấn áp đối phương thì hiệu quả càng ngày càng ít ỏi nhưng họ vẫn cứ phải làm vì cái cần của họ là thích được sống trong hơi thở đồng điệu, sự chở che của bầy đàn và hơn nữa, nó trấn áp nỗi tự kỷ ám thị của chính mình.

Động vật hoang dã dùng tiếng tru, tiếng kêu hay những tín hiệu hình thể trực quan để báo động nhau. Dân cờ vàng không thể tru lên được cho nên nhất thiết phải có những cơ quan truyền thông cờ vàng để làm công việc đó. Những cơ quan truyền thông cờ vàng là nơi để cộng đồng cờ vàng cùng nhau góp tiếng nói kích động và cảnh giác nhau về những “nguy cơ”. Những cơ quan này phải xác định rất cụ thể cái mà họ gọi là “lằn ranh quốc cộng” để tác nghiệp. Truyền thông cờ vàng phải biết đâu là “nguy cơ” và phải biết đâu là làm lợi cho CS.

Nguy cơ cộng sản trong cộng đồng cờ vàng xưa nay vẫn là bóng ma vô hình len lỏi mọi ngóc ngách cuộc sống của họ, và trở thành nỗi tự kỷ ám thị trầm trọng. Dường như chẳng có lúc nào họ không cảnh báo nhau về “nguy cơ” đó và hình như ở đâu cũng có thể có nguy cơ Cộng Sản rình rập. Mỗi thành viên cộng đồng cờ vàng đều có những đánh giá về nguy cơ khác hẳn nhau cho nên mấy chục năm qua cứ như thế nguy cơ nó tràn ngập trong cộng đồng cờ vàng và đã đến lúc họ cảm thấy bất lực vì nguy cơ đầy dẫy mà những tiếng kêu tụ tập bầy đàn càng ngày càng yếu ớt, và cái vũ khí nhe răng xù lông hù dọa càng ngày càng mất dần tác dụng.

Chính cờ vàng đang lãnh lấy hậu quả từ những “nguy cơ” được họ tạo ra để hù dọa nhau. Từ chỗ nó không có thực, phản xạ bầy đàn làm nó thành mối đe dọa có thực và nó trở thành nỗi tự kỷ ám thị có sự truyền nhiễm như một thứ dịch bệnh nặng nề đeo bám họ.

Cộng đồng Việt ở hải ngoại còn nhớ rõ những trò kích động nhau để chống lại cái gọi là “nguy cơ Cộng Sản”, “tuyên truyền làm lợi cho CS”, hay “phỉ báng cờ vàng” mà chỉ có họ mới nhìn thấy nó trong sợi dây thắt lưng một ca sĩ, nhìn thấy nó trong những bức tranh triển lãm nghệ thuật, và ngay cả trong cái chậu rửa chân. Qua sự kích động thì dân cờ vàng nào cũng thấy đó là “nguy cơ” cần phải dập tắt. Họ thực sự bị ám ảnh mạnh bởi lá cờ đỏ sao vàng đến nỗi bằng mọi giá họ không để cho nó xuất hiện bất cứ nơi đâu dù là trên sợi dây nịt hay một thoáng truyền hình. Sự kích động lẫn nhau cũng chỉ đi đến cái đích cuối là tụ tập bầy đàn để tỏ thái độ chống lại những “nguy cơ” họ tự tạo cho mình.

Sự kích động lẫn nhau cũng nhằm nuôi dưỡng hận thù và ra sức tố cộng với mục đích hạ thấp hình ảnh của đảng CSVN bằng những trò nói láo để vuốt ve lừa mị nhau về hình ảnh một đảng CS tàn bạo thối nát đang suy tàn vì mất lòng dân. Họ cho rằng nhân dân trong nước cũng đang phẫn nộ sẽ có tiếng nói chung với bầy đàn của họ và họ mơ đến việc “giải thể Cộng Sản”. Chính vì đua nhau nói láo để tố cộng cho nên họ rất lo sợ làn sóng người trở về VN và tất cả những thông tin về sự thật mà họ cho rằng “có lợi cho Cộng Sản”.

Chỉ cần một cái bắt tay của BU MỸ với CS đã đủ “làm lợi cho cộng sản “gấp trăm ngàn lần những lời lẽ vu vơ mà cờ vàng tố khổ. Tuy nhiên chẳng khi nào và chắc chắn là không bao giờ họ có những sự “lên tiếng” để tỏ thái độ với bu. Điều này nói lên rằng những cáo buộc nhau “làm lợi cho CS” suy cho cùng chỉ là để triệt hạ nhau cái tội nói ngược với tiếng nói chung của bầy đàn mà thôi.

Sự kích động lẫn nhau còn là sự kêu gọi tập trung cờ vàng để tự sướng rằng mình vẫn là một thế lực. Những hình ảnh quen thuộc của một rừng cờ vàng khi họ tập họp nhau lại có tác dụng nâng đỡ tinh thần nhau và tạo ảo giác rất mạnh, cho họ cái cảm giác rất ấm áp và an toàn khi ở trong bầy đàn.

Gần đây nhất là vụ cờ vàng kích động để thỉnh nguyện BU can thiệp vào nội bộ VN và xin được hát cho bu nghe bài ca tố cộng. Cờ vàng được dịp sướng đê mê khi tập họp được hàng trăm ngàn chữ ký tưởng chừng như chắc chắn bu phải đoái hoài và được mách bu. Vẫn là sự kích động từ truyền thông cờ vàng, vẫn là trò nói láo phóng đại nổ banh nhà lồng chợ và vẫn là việc tạo ra những bánh vẽ. Thế mà đến thế kỷ 21 rồi mà họ vẫn đưa nhau được lên mây bằng tàu bay giấy.

Cả tuần qua dân cờ vàng lại cùng nhau phát tiếng tru bầy đàn khi phát hiện “nguy cơ” ngay chính trong tờ báo ruột thịt của mình, tờ Người Việt, tờ nhật báo lớn nhất là nồng cốt của tiếng nói cờ vàng, và ngay lập tức trò kích động phản xạ cờ vàng lại được dùng đến. Lý do được nói đến để kích động là tờ báo này đã dám đăng ý kiến 1 độc giả được cho rằng ca ngợi CS, phỉ báng cờ vàng mặc dù độc giả này phát biểu với ý cá nhân và chỉ lập lại ý của cả trăm ngàn ý kiến khác trên internet

Khi bị các chuyên gia kích động lên tiếng, tờ báo này đánh hơi ngay được hậu quả và nghĩ ngay đến nồi cơm. Tờ Người Việt đã từng nếm mùi gây rối của những anh cờ vàng vô công rỗi nghề ăn vạ cả năm trời trước cửa mà chỉ đòi được xin lỗi, làm cho nồi cơm của mình bị ảnh hưởng nặng nề. Lần này rút kinh nghiệm, tránh voi không xấu mặt nào, tờ báo đã chủ động tự xử trước bằng cách đá văng nồi cơm nhân viên của mình đồng thời nhanh chóng hạ mình “xin lỗi” rất thành khẩn để hạ nhiệt đám đông, để lấy lòng cờ vàng và cứu lấy nồi cơm tờ báo.

Thập niên 80, 90 cờ vàng rất thành công trong việc quy tụ bầy đàn. Sự kích động có hiệu quả rất cao và phản xạ cờ vàng có sức lan tỏa mạnh mẽ. Sự kích động đã dẫn đến những cuộc biểu tình lớn tập họp được số đông và đạt được mục tiêu xù lông trấn áp và triệt hạ đối phương. Thời gian này những lãnh tụ cờ vàng vẫn còn sức lực và tham vọng biến bầy đàn cờ vàng thành một đảng mafia khống chế cộng đồng. Nếu sự kiện này xảy ra vào thập niên 80, 90 có lẽ phản xạ cờ vàng sẽ rất ghê gớm và chưa biết điều gì xảy ra cho tờ báo Người Việt.

Tuy nhiên có thể thấy trong cuộc họp của báo Người Việt để trần tình thú nhận tội lỗi vừa qua, cái khí thế cờ vàng đã sa sút trầm trọng. Điều này có phần bởi thái độ của bộ sậu tờ báo này đã chủ động cúi rạp mình sát đất để “thành khẩn nhận lỗi”, nhưng phần lớn sự xì hơi của cái khí thế là bởi sự kích động phản xạ cờ vàng đã quá nhàm không thể tạo ra hiệu ứng domino như ngày nào, không thể nhân lên cái sự “phẫn nộ”, và cái “nguy cơ” từ tờ báo cũng nhẹ hều chẳng khác những nguy cơ đang tràn ngập cộng đồng, không thể xù lông mà giải quyết được nữa rồi.

Một buổi họp để giải quyết mâu thuẫn cờ vàng mà lại có sự hiện diện công khai hai thằng ”Việt gian”. Nó ngồi chình ình trước mặt để quay phim như trêu ngươi mà vẫn phải ngậm bồ hòn đủ thấy cái khí thế cờ vàng nó tuột dốc thê thảm. Hai cái gai “Việt gian” nó rung đùi trước mặt còn đáng “phẫn nộ” gấp trăm lần cái ý kiến của một độc giả ảo ở đâu đâu “phỉ báng cờ vàng” mà cử tọa vẫn lặng thinh, chỉ phản ứng yếu ớt bằng tràng pháo tay tán thưởng phát biểu của lão già gần xuống lỗ cuối buổi họp cảnh báo về sự có mặt hai thằng Việt Gian. Lão già cũng không quên thòng thêm một câu tự sự không biết ngụ ý gì, rằng đã gần đất xa trời nên không sợ gì nữa.

Cái sự “phỉ báng” nó đang xảy ra như cơm bữa đối với dân cờ vàng, cho nên cái sự “phẫn nộ” nó xẹp dần bởi số lượng càng ngày càng tăng của cái sự “phỉ báng” mà phải bó tay. Giờ đây họ chỉ phản ứng như một phản xạ bầy đàn nhưng rất yếu ớt, họ phải phản ứng vì tự ái cờ vàng, vì cảm thấy bị sỉ nhục, nhưng nó chỉ còn tác dụng hù dọa với những kẻ yếm thế hèn nhát mà thôi.

Những kích động bầy đàn của cờ vàng luôn khởi đi từ các anh được học hành, xưng là trí thức, có chữ nghĩa, có tài nói láo dẻo như bún. Các anh này có rất nhiều kinh nghiệm và thủ thuật để kích động tập hợp bầy đàn của mình thông qua các hệ thống truyền thông chống cộng. Có thể nói ngay rằng các anh này có công rất lớn trong việc tạo ra những “phản xạ cờ vàng”.

Nếu anh cờ vàng nào cho rằng những so sánh trong bài viết này là phỉ báng, là mạ lị xin mời các anh lên tiếng phản biện về sự khác biệt giữa phản xạ bầy đàn cờ vàng của các anh và loài động vật hoang dã ra sao.

Xin mời các nhà trí thức, các anh tiến sĩ cờ vàng hãy phản biện cho việc các anh đã dầy công tạo dựng thành công cho riêng bầy đàn của mình cái bản năng phản xạ bầy đàn mà con người đã thoái hóa từ rất lâu lâu rồi: bản năng thú vật.

xichloviet

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Ba 31, 2014 in Xã hội VN

 

Nhãn: , , , , , , , , , , , , ,

TIẾNG “TRU” CỦA NHỮNG CON THÚ LẠC LOÀI

cxn

Đọc thêm nhé: Vạch trần bộ mặt phản động của “Diễn đàn xã hội dân sự”

Không ai có thể đếm hết được những đầu bếp chuyên chế biến thức ăn cho cờ vàng, nhưng thợ giỏi thì không nhiều, cùng món “rận chó hay là món chiên ghẻ” nhưng mỗi anh chế biến một kiểu, có anh chế biến để hạp khẩu vị con chiên, có anh thêm nếm cho nó hạp cái vị cay cú cờ vàng và thế là đủ để ăn khách, cũng những món này nhưng có anh bị tổ trác, xào nấu nhạt nhẽo lại quá hưng phấn thêm nếm quá tay bởi vậy cứ thối um cả lên, mà ngay cả cờ vàng cực đoan thứ thiệt cũng không thể ngửi nổi và rồi cuối cùng thì quay ra cắn nhau – Vui đáo để.!


Đến nay, chúng ta có hơn 4 triệu đồng bào ruột thịt định cư tại hơn 100 quốc gia, vùng lãnh thổ. Dù bị các thế lực phản động luôn o ép, tuyên truyền xuyên tạc, thậm chí khủng bố, nhưng bà con Việt kiều nói chung, những người con ở hải ngoại nói riêng luôn hướng về Tổ quốc.

Không giống như đại đa số người Việt đã định cư thành công tại mỹ, những kẻ cuồng tín chống phá Việt Nam (CCCĐ) hình như không có ý định hội nhập vào xã hội MỸ. Thay vì hội nhập vào sinh hoạt địa phương, họ lập bè lập nhóm chính trị, lợi dụng danh nghĩa “cộng đồng” để bòn rút tiền từ chính phủ mỹ. Họ muốn tái lập một Việt Nam Cộng hòa thu nhỏ tại mỹ với saigon little là thủ đô. Chính vì thế mà bọn CCCĐ yêu cầu chính quyền mỹ phải công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ đã “chết” từ 36 năm qua. Bọn CCCĐ ngang nhiên và trịch thượng yêu cầu chính quyền mỹ không hợp tác kinh tế với việt nam .

Mặc dù những kẻ cuồng tín và cực đoan này lúc nào cũng tru tréo , vỗ ngực là công dân mỹ, nhưng trong hành động thực tế bọn chúng bận tâm nhiều đến quá khứ, đến việc chống phá Việt Nam, hơn là góp phần vào việc tranh luận các vấn đề liên quan đến nước mỹ. Vì dồn tâm lực quá nhiều vào công việc chống phá Việt Nam, khi đối đầu với các vấn đề địa phương CCCĐ hoàn toàn cứng họng, và trở thành những người câm điếc. CCCĐ chẳng có gì để nói đến vấn đề ma túy, thất nghiệp, nghèo khổ của người Việt tại mỹ.

Bọn CCCĐ gào thét chống phá Việt Nam

Thay vào đó, CCCĐ liên tục hăng say ngụy tạo ra những thông tin về Việt Nam và tuyên truyền trong một số chính trị gia . Họ tô vẽ một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu, vô luật pháp, khủng hoảng, thối nát, không có nhân quyền, không có tự do tôn giáo, v.v. và v.v.

Theo quan điểm hoài nghi của CCCĐ, bất cứ Việt Nam làm điều gì cũng sai trái. Dù cho Việt Nam có chính sách đúng đắn thì dưới mắt CCCĐ vẫn là phục vụ cho mục tiêu sai trái! Bởi vì họ chưa từng bước chân đến Việt Nam cả 36 năm nay, cho nên CCCĐ nhìn Việt Nam qua con mắt của những kẻ mù sờ voi.

Nếu những ai đã từng nghe qua những ngụy tạo của nhóm người cuồng tín và cực đoan trong “cộng đồng” mà chưa lần ghé Việt Nam, thì một chuyến đi thực tế ở Việt Nam sẽ là một kinh nghiệm sốc. Sau gần 50 chiến tranh tàn khốc, người Việt nhanh chóng tự mình từng bước phát triển đất nước. Việt Nam ngày nay là một đất nước đa dạng, trẻ trung, sống động, phát triển với dân số trên 90 triệu người. Nói chung, trong bất cứ chỉ tiêu xã hội và kinh tế nào, Việt Nam đều đạt được những tiến bộ tích cực.

Đó là điều đã được khẳng định trong Nghị quyết 36-NQ/TW (ngày 26-3-2004) của Bộ Chính trị BCHTW Đảng CSVN và chương trình hành động của Chính phủ nước CHXHCNVN (ngày 23-6-2004), nhằm thực hiện tinh thần đại đoàn kết, hòa hợp, hòa giải dân tộc, cùng nhau bảo vệ và xây dựng đất nước giàu mạnh.
Khi chế độ cũ ở miền Nam sụp đổ vào 30-4-1975, đất nước được thống nhất, nền hòa bình mà hàng chục triệu người Việt Nam mong chờ suốt mấy mươi năm đã trở thành hiện thực. Một bộ phận trong hơn một triệu sĩ quan, công chức, binh lính của bộ máy chính quyền chế độ cũ đã ra đi theo những chuyến tàu di tản.

Những năm tiếp theo, đất nước ta vừa phải dồn sức khắc phục những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh để lại, vừa phải tiếp tục chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ Tổ quốc ở biên giới hai đầu đất nước trong điều kiện bị các thế lực quốc tế bao vây, cấm vận ngặt nghèo.

Bọn CCCĐ có biết dân tộc VN đã có thời kỳ đắng cay !

Những khó khăn trong giai đoạn này bị bọn CCCĐ thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc, kích động… nhằm lôi kéo một bộ phận người miền Nam ra đi bằng con đường vượt biên.

Sau đó, qua việc hai Chính phủ Việt Nam – Hoa Kỳ cho xuất cảnh, cộng đồng người Việt ở Mỹ nhóm “đoàn tụ”… Vậy là hình thành cộng đồng“di tản”, “vượt biên”, “đoàn tụ”. Một số ít người CCCĐ đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước, phá hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại và Việt Nam…

Trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài hiện có gần 700 tổ chức, hội đoàn, hơn 400 tờ báo, tạp chí, 46 đài phát thanh, truyền hình bằng tiếng Việt, 74 nhà xuất bản… Để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” chống Việt Nam, nhiều năm qua các thế lực cực hữu ở các nước sở tại đã hà hơi tiếp sức cho bọn phản động cực đoan thâm nhập, lũng đoạn các tổ chức hội đoàn và hệ thống báo chí xuất bản này.

Bọn CCCĐ dùng phương tiện, lực lượng này để chống phá đất nước dưới chiêu bài đòi “tự do, dân chủ, nhân quyền”. Bọn “lưu manh chính trị” này sẵn sàng đàn áp, chụp mũ, hãm hại bất kỳ ai – nhất là giới cầm bút khi họ muốn hướng về Tổ quốc Chúng gào thét chửi rủa những nhà báo như KBCHN.NET , VIETWEEKLY , PHỐ BOLSA TV về VN tìm hiểu thực tế .Để cho ép phê hơn bọn CCCĐ còn lôi cả vợ con những nhà báo dũng cảm này băm vằm trên mặt báo , một trò bỉ ổi của bọn quái vật đội lốt người.

Dương Trọng Lâm – chủ báo Cái Đình Làng ở San Francisco, vợ chồng ông Nguyễn Văn Lũy – Chủ tịch hội Việt kiều yêu nước ở Mỹ, Đạm Phong – chủ báo Tự Do tại Houston – Texas, nhà báo Hoài Điệp Tử ở Westminster – California… đã bị chúng sát hại dã man với lý do trên. Đặc biệt hơn là trường hợp Trần Khánh Vân – Tổng cục trưởng tổng cục gia cư Sài Gòn, định cư tại Mỹ. Ông Vân bị bọn côn đồ xưng danh “chiến sĩ VNCH” giết chết vì đã kêu gọi Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

Những văn nghệ sĩ, trí thức nổi tiếng khi có dịp về thăm quê hương, lập tức bị chúng “mở chiến dịch” tuyên truyền và vu khống đủ điều. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nhạc sĩ Phạm Duy, ông Nguyễn Cao Kỳ… từng là nạn nhân của những thủ đoạn bỉ ổi như thế. Rồi tổ chức văn bút VN hải ngoại với những cuộc “thanh trừng nội bộ khủng khiếp” đã bị chính những nhà lãnh đạo của nó gọi là “chốn gió tanh mưa máu”! Ngay Duyên Anh – thuộc diện nhà văn “chống cộng có tiếng tăm từ năm 1954”, nhưng khi ra những tác phẩm như: “Đồi Fanta”, “Nhìn lại những bến bờ…” bị chụp mũ là “thỏa hiệp, thân cộng”, bị đám côn đồ nhân danh “cựu chiến sĩ VNCH” đến hành hung. Rồi Đỗ Mậu, từng nắm chức giám đốc an ninh quân đội, tham gia lật đổ Ngô Đình Diệm, có “công trạng” với “nền cộng hòa miền Nam” không nhỏ. Thế nhưng, khi ông cho xuất bản hồi ký “Việt Nam máu lửa quê hương tôi” ở hải ngoại thì ông đã phải sống dở chết dở. Bọn CCCĐ cho in hơn 10 cuốn sách để phản bác lại nội dung sách của ông Mậu. Tên ông Mậu hàng ngày bị lôi lên các báo, đài do chúng kiểm soát chửi bới, mạ lỵ. Chúng gặp ông ở đâu cũng đòi bắn, đòi giết và còn kéo đến đòi đốt luôn những cửa hàng dám bán sách của ông.

Đến cả ông Nguyễn Cao Kỳ – từng là phó tổng thống của VNCH, từng là cấp trên tối cao của đám CCCĐ. Song, khi ông về thăm quê hương và có những phát biểu khen ngợi công cuộc đổi mới ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lập tức bị chúng chửi bới, xuyên tạc trên khắp các báo, đài ở hải ngoại..

Thêm vào đó là cuộc mưu sinh nơi đất khách quê người thấm đẫm những khó khăn cực nhọc bởi nạn kỳ thị màu da, bởi những ám ảnh thất nghiệp, bởi khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa… đã làm cho những nhà báo có tâm huyết với đât nước , dân tộc nhiều lúc nản lòng. Bên cạnh đó, các thế lực CCCĐ đã lũng đoạn hầu hết các hội đoàn, báo chí – xuất bản để chống phá đất nước. Chúng khống chế để văn thơ người Việt hải ngoại suốt mấy chục năm toàn thấy những tác phẩm lải nhải kể khổ theo kiểu “hồi ký cải tạo”, “thảm kịch vượt biên”… gây nhàm chán cho người đọc.

Đến mức nhà văn Nhật Tiến phải đặt câu hỏi: “Ở Mỹ, chúng ta thực sự có được tự do sáng tác hay không?”. Nam Dao – tiến sĩ kinh tế đang giảng dạy tại nhiều trường đại học danh tiếng ở châu Âu, Mỹ, đồng thời cũng là một nhà văn, trong phát biểu gần đây trên một tờ báo tiếng Việt ở hải ngoại, ông nói: “Có bao nhiêu mất mát, oan khiên, nói mãi cũng nhàm, cũng chán… đâm đầu vào “chuyên chính tư sản” với tất cả hào quang của xã hội tiêu thụ thừa mứa cũng chẳng hay ho gì”!

Nguyễn Hưng Quốc được coi là nhà nghiên cứu, phê bình văn học nổi trội trong cộng đồng người Việt hải ngoại đã cay đắng nhận xét: “Những cây bút lưu vong tìm vui trong cái cộng đồng nhỏ bé, ngày càng nhỏ bé của mình. Đã nhỏ bé lại còn lạnh lẽo nữa… Đăng một bài viết hay in một cuốn sách, nhiều lúc ngỡ như nói vào một ống điện thoại không nối dây. Lạnh ngắt! Hoàn toàn lạnh ngắt!… Ở hải ngoại, viết văn không thể là một nghề nghiệp mà trên thực tế cũng không còn là một danh phận.

Viết báo, viết văn trở thành “cách hành lạc đau đớn của những người bị bất lực”. Ngày 18-2-2006, tại Paracel seafood restaurant – Nam Cali-USA, giới cầm bút đã tổ chức một đại hội trong sự cố gắng vực dậy “Văn học Việt Nam hải ngoại”. Song theo tường thuật của tờ Việt Weekly thì “vắng như chùa bà đanh” và “diễn ra trong không khí an bình, hòa nhã, tôn kính lẫn nhau như thiên đàng”… nêu hết những thực tế như vậy để bạn đọc dễ hiểu hơn khi đi vào từng khuynh hướng sáng tác của người Việt hải ngoại.

Trong những năm gần đây, nhiều Việt kiều từng giữ những cương vị cao trong chính quyền Sài Gòn cũ, như ông Nguyễn Cao Kỳ (nguyên phó tổng thống), hoặc lãnh đạo tôn giáo (như Thiền sư Thích Nhất Hạnh), nghệ sĩ nổi tiếng (như nhạc sĩ Phạm Duy)… đều được trở về nước và được Nhà nước tạo mọi điều kiện tốt nhất để sinh hoạt, làm ăn, hoạt động tôn giáo, nghệ thuật. Bà con trong nước cũng dành tình cảm chân thành của những người “cùng máu đỏ da vàng” cho những ai trở về đóng góp xây dựng và bảo vệ quê hương, không phân biệt đối xử hay có định kiến.

Những em bé ở hải ngoại bị bọn CCCĐ tiêm chích thù hận với quê hương .

Thế nhưng, khi có những đoàn từ trong nước sang một số khu vực có đông người Việt cư trú ở Mỹ, Canada, Úc…, các nhóm phản động lưu vong CCCĐ đã xúi giục, cưỡng ép một số người mang “cờ vàng” ra biểu tình, la ó. Đây là những hành vi vừa kéo dài hận thù, chống lại hòa hợp, hòa giải dân tộc, vừa thể hiện tính cách côn đồ , quái thú “phi quân tử”, vô văn hóa.. của bọn đội lốt người mà người ta thường gọi chúng là CCCĐ.Chúng không cư xử đúng với truyền thống của người Việt.

Houston tháng 2 -2012
Amari tx

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Ba 22, 2014 in Tham nhũng

 

Nhãn: , , , , , , ,

Nỗi ám mang tên cờ vàng

cxn

Đọc thêm nhé: Cờ vàng ba sọc đỏ biểu tưởng cho cái gì?

Không ai có thể đếm hết được những đầu bếp chuyên chế biến thức ăn cho cờ vàng, nhưng thợ giỏi thì không nhiều, cùng món “Rận chó” nhưng mỗi anh chế biến một kiểu, có anh chế biến để hạp khẩu vị con chiên, có anh thêm nếm cho nó hạp cái vị cay cú cờ vàng và thế là đủ để ăn khách, cũng món này nhưng có anh bị tố trác, xào nấu nhạt nhẽo lại quá hưng phấn thêm nếm quá tay cho nên cứ thối um cả lên, mà ngay cả cờ vàng cực đoan thứ thiệt cũng không ngửi nổi và rồi cuối cùng thì quay ra cắn nhau – Vui đáo để!


Xichloviet

Gần đây, một sự kiện gây nhiều chú ý trong cộng đồng người Việt ở Mỹ là việc nghị viên khu vực F TP Houston Hoàng Duy Hùng (HDH) về VN làm việc. Sự việc sẽ không mấy ồn ào nếu ông này không phải là thành phần từng có số má cờ vàng thuộc loại cực đoan hăng tiết vịt, nhưng nay lại quay ngoẳt lập trường để “làm lợi cho CS”. Đây là điều tối kỵ đối với cộng đồng cờ vàng hải ngoại nhất là trong thời điểm cờ vàng đang ốm o gầy mòn, tiêu hao lực lượng sống nay chết mai.

Thành tích chống cộng của HDH khá ấn tượng trong cộng đồng chống cộng cờ vàng vì những hành động mang tính giang hồ hảo hán. Ông ta khoe thành tích với vẻ hãnh diện rằng đã nhiều lần xâm nhập VN âm mưu đặt bom tượng đài lãnh tụ HCM và từng bị chính quyền VN cầm tù 16 tháng.

Bản chất của cờ vàng là chết nhát, chỉ biết xúi trẻ ăn cứt gà để mơ mộng cho nên những hành động như vậy luôn được khuyến khích, đề cao và ca ngợi như là anh hùng. Có một thời ở hải ngoại nổi lên những nhân vật cờ vàng tìm mọi cách hành động gây tiếng vang tương tự để nổi tiếng và cũng để kiếm cơm. Tuy nhiên hầu hết đều được bóc lịch trong nhà đá CS. Thời VNCH những hành động chống lại nhà cầm quyền như thế thì ra tù không què cũng ngớ ngẩn, không bao giờ còn nguyên vẹn hình hài. Thế nhưng những “anh hùng cờ vàng “như Lý Tống, tay chân của Nuyễn Hữu Chánh, tay chân của băng đảng Việt Tân, băng đảng Vì Dân … và rất nhiều người khác vẫn bình an béo tốt khi mãn hạn tù, cho thấy tính răn đe của luật pháp VN vẫn còn nhẹ hều cho nên có nhiều tội phạm loại này có cơ hội tái phạm trong đó có HDH.

HDH cho rằng máu hảo hớn cờ vàng của mình như thế thì quá đủ để chứng minh mình đã dấn thân rất nhiều cho cờ vàng và chứng minh mình là dân cờ vàng thứ thiệt. Nay sở dĩ HDH thay đổi lập trường đấu tranh vì BU BẢO chứ không phải phản bội cờ vàng. Đề cập đến BU là một vũ khí hiệu quả đặc biệt có tác dụng làm câm họng những kẻ chống đối. Nó được nhiều người sử dụng từ khi còn chế độ VNCH. Một khi BU BẢO thì cấm có thằng nào dám trái lời.

HDH lập lại rất nhiều lần rằng những lần manh động có tính khủng bố ở VN ông đều được BU BẢO là cần phải chấm dứt. Nay ông phải nghe lời BU để đấu tranh kiểu khác nhưng ông không hề từ bỏ lập trường cờ vàng. Thực ra Bu không bảo thì HDH cũng phải chấm dứt hành động mang tính khủng bố tương tự vì HDH hành động mang tính bột phát, anh hùng rơm không có được một tổ chức ra hồn để hỗ trợ và việc thoát khỏi bị bắt vào nhà đá chỉ là cánh cửa vô cùng hẹp, chỉ biết trông chờ vào chúa mà thôi. Nguyễn Hữu Chánh có hẳn một tổ chức “chính phủ VN tự do” hoạt động trong quốc nội mà vẫn bị CAVN lượm vào nhà đá gần 200 em (báo cand) gần như sạch sành sanh thì dù BU BẢO HDH cũng đố dám ho he. Tất cả những âm mưu đánh bom khủng bố của cờ vàng 38 năm qua đều bị CAVN dập tan từ trứng nước. Cái thiếu lớn nhất của cờ vàng dẫn đến thất bại là thiếu người dám đánh bom liều chết.

Thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra khi cờ vàng có một tinh thần thánh chiến như Al Quaeda, có những chiến binh cờ vàng sẵn sàng mang bom liều chết để gây bất ổn cho kẻ thù? Vĩnh viễn không bao giờ có được bởi vì cờ vàng rất ích kỷ không bao giời muốn chết cho kẻ khác sống và lá gan của cộng đồng cờ vàng không đủ lớn để làm những việc như thế, duy chỉ có cái mồm vẫn đủ lớn để nói láo suốt ba mươi tám năm qua.

Là một thành viên cờ vàng chống cộng có số má được ghi vào sổ bìa đen của Công An VN, cánh của trở về của HDH rất hẹp. Nhiệm kỳ làm nghị viên TP Houston là cơ hội hiếm hoi để HDH toan tính cho cuộc hành hương về nguồn của mình danh chính ngôn thuận. Đây chính là thời điểm để HDH toan tính thế nào vừa thênh thang đường về vừa không làm nổi giận băng nhóm cờ vàng. Đây là bài toán nhức óc. Điều dễ dàng nhất để vừa lòng cờ vàng là HDH phải có phát ngôn tố cộng cứng rắn, phải nói láo, phải hứa hẹn kiên định lập trường cờ vàng và xác định lằn ranh quốc cộng. Thế nhưng về VN làm nhiệm vụ của một viên chức Mỹ, nhập gia người ta mà cứ moi móc hoạnh họe gia chủ theo luận điệu cờ vàng thì quá khó cho một người có chút liêm sỉ. HDH chọn thái độ vẫn khẳng định lập trường cờ vàng nhưng tuyên bố chuyến hướng sang … đấu tranh ôn hòa trực diện, Thế nhưng nào có được yên thân, lập tức HDH bị biểu tình phản đối và đặt bom khủng bố.

Cờ vàng chẳng bao giờ tin ai, ngay cả những “anh hùng” của mình. Cờ vàng quen nói láo và nghĩ rằng ai cũng có thể nói láo như mình. Thế nên một anh cờ vàng khi tuyên bố điều gì lập tức có hàng chục anh khác cật vấn vì cho rằng anh kia đang nói láo. HDH cũng nằm trong trường hợp đó. Khi công bố rằng anh ta chỉ làm cầu nối để cờ vàng “đấu tranh trực diện” với thứ truởng ngoại giao VN Nguyễn Thanh Sơn thì lập túc có hàng chục thành viên cờ vàng khác chất vấn đủ điều, nào là bảo không bên nào có phóng viên tại sao có hình đang trên báo trong nước, nào là tại sao buổi họp tuyên bố là công khai mà lại ru rú họp kín với nhau.v.v… Tóm lại họ cho rằng HDH đang nói láo. Nói láo là loại vũ khí thuộc loại bẩn thỉu nhất nằm trong danh mục đặc sản cờ vàng không anh nào là không tận dụng, trong đó có việc tố nhau là Việt Gian, moi móc tố khổ đời tư của nhau mà chính HDH cũng từng là nạn nhân. Ngay sau khi thay đổi lập trường chống cộng HDH lập bị tố khổ là Việt Gian, là đứa con bất hiếu từng khiến thân phụ của mình uất ức phải lao đầu vào xe tự tử. Làm vừa lòng được cờ vàng bằng lý lẽ là chuyện xưa nay hiếm vì đối với họ không có lý lẽ nào biện hộ được cho việc xóa bỏ “lằn ranh quốc cộng”.

Biết rằng không thể làm vừa lòng cờ vàng, biết rằng kiểu cực đoan cờ vàng 38 năm qua của những băng nhóm chất chứa đầy hận thù và vị kỷ chỉ là làm trò hề cho thiên hạ nhưng HDH không thể đủ can đảm và bản lĩnh để giũ bỏ nó đi, ngược lại cố bó nó vào người để tìm sự an toàn, đó là sai lầm mà HDH sẽ phải đeo đẳng mãi bên mình nỗi ám mang tên cờ vàng.

HDH là thế hệ cờ vàng thứ hai được đào tạo bởi nền giáo dục BU cho nên cái hận thù trong giòng máu không khốc liệt như thế hệ trước và thật may cũng nhờ thế nên HDH không bị nhiễm cái NGU của cờ vàng cực đoan, nhất là sợi thần kinh xấu hổ không bị liệt giúp cho HDH nhận ra sự thật lịch sử để chấp nhận nó và ít ra không bị nhiễm thói điêu ngoa nói láo rất ghê tởm của cha chú mình. Thế nhưng kiểu tuyên truyền nhồi sọ của cha chú cũng làm cho HDH thấm đậm chất cờ vàng. HDH lập lại như con vẹt rằng “CS vô thần” và ngạc nhiên thấy ông Nguyễn Thanh Sơn thờ phật. Lập lại như con vẹt rằng Saigon là “hòn ngọc Viễn Đông” phát triển hơn hẳn Thái Lan và Nam Dương để so sánh với Saigon ngày nay chứng tỏ rằng cái não trạng cờ vàng đã được ngấm sâu tư tưởng đã được nhồi sọ như thế nào. Dù rằng không cần gặp ông Nguyễn Thanh Sơn, hay dù rằng chưa về đến Sai gon đi nữa với phương tiện truyền thông hiện nay HDH cũng có thể biết được sự thật nó như thế nào.

HDH vẫn như con vẹt tự nhận mình là người “quốc gia tị nan CS”. Người quốc gia cái nỗi gì khi qua Mỹ chưa đầy 13 tuổi. Thằng cu 13 tuổi thì gặp NẠN gì của CS mà phải TỴ? Xem ra vẫn còn tồn tại thế hệ cờ vàng con cứ cứ múa môi như cái máy được lập trình software mang tên cờ vàng.

Sự thực phát triển ở VN làm cho những nhân vật cờ vàng có số má như HDH cũng phải công nhận và ca ngợi không thể nói khác đi được. Trong chuyến về làm việc tại VN, HDH nhận xét sự phát triển ở VN bằng những lời có cánh. Chưa hẳn HDH muốn nịnh chính quyền VN bởi vì bất cứ ai từng đến VN đều có nhận xét như thế. Tuy nhiên nhận xét “có lợi cho CS” xuất phát từ một hậu duệ cờ vàng cực đoan như HDH thì chắc chắn nó tạo ra một cú sốc rất mạnh cho cộng đồng cờ vàng cho dù đó là sự thực.

Trên các diễn đàn HDH nhận được nhiều lời khen, động viên khích lệ về việc dũng cảm tự nhận con đường cực đoan mình theo đuổi vô ích và từ bỏ nó, nhưng cũng có không ít những giọng điệu chửi bới cay cú đặc sệt ngôn ngữ cờ vàng. Những chống đối chỉ xoay quanh những luận điểm rất cũ là HDH hạ mình thỏa hiệp với CS, bị CS mua chuộc, hòa hợp hòa giải với CS, toàn những điều được xem là điều tối kỵ trong lập trường cờ vàng. Trước khi về VN, HDH đã rào đón rất kỹ để thăm dò nghe ngóng phản ứng, về lại Mỹ, dù bị tẩy chay HDH vẫn tổ chức họp báo để “báo cáo” sau chuyến đi của mình với điểm nhấn là lá cờ vàng to đùng sau lưng cho thấy HDH vẫn còn sợ hãi thế lực đen cờ vàng lắm, HDH thiếu hẳn bản lĩnh và sự quyết đoán cần có của một trí thức muốn dấn thân làm chính trị.

Hở một tí là lấy lá cờ vàng phất lên để chứng minh sự trung thành với “quốc gia” Trò hề độc nhất vô nhị trên thế giới này chỉ thấy xuất hiện trong cộng đồng cờ vàng với nhau. Thế nhưng nó cũng không phải là lá bùa vạn năng có thể hóa giải những lời chửi bới, tố khổ Việt gian. Và không phải ai cũng tin vào cái “lập trường quốc gia” qua hành động ấu trĩ đó. Thế nhưng một trí thức như HDH cũng vẫn phải áp dụng cái hình thức “thay lời muốn nói” này để phân bua với cờ vàng như một nghi thức bất thành văn đủ thấy cái văn hóa cờ vàng nó hề đến độ nào.

Cũng vì quá quen với “nghi thức’ như thế cho nên cờ vàng rất dị ứng với anh nào đứng đưới lá cờ đỏ vì cho rằng anh ta đã bị CS nhuộm đỏ rồi. Quả là nếu so với con bò không biết ai ngu hơn.

Mấy chục năm qua trường hợp như HDH quay về VN hợp tác với chế độ không ít xảy ra và đã nhận rất nhiều hình thức chống đối, tẩy chay của cờ vàng nhưng cờ vàng vẫn bất lực không thể ngăn chận được.

Về VN, trở về quê hương của chính mình là một việc tưởng như vô cùng bình thường đối với bất cứ người Việt nào, nhất là trong giai đoạn nhà nước VN đang rộng cửa mời gọi kiều bào về đóng góp cho đất nước. Thế nhưng việc về lại quê hương lại là bài toán khó giải đối với những người từng đứng trong hàng ngũ cờ vàng như HDH. Thế nên trước khi về VN HDH đã tung hứng làm một loạt những hành động thăm dò phản ứng cờ vàng. Dù bị hăm dọa và đặt bom, nhưng nhận thấy liều lượng chống đối quen thuộc quá yếu ớt không còn mạnh mẽ như ngày nào thế là HDH quyết định về VN. Dù khó khăn nhưng HDH đã đạt mục tiêu là …. về thăm quê hương. Ôi thật là không nghịch lý nào bằng..

Không riêng gì HDH, cái con ngáo ộp thế lực đen cờ vàng vẫn còn ám những kẻ từng tung hô cờ vàng nhưng nay giở trò “phản bội”. Tuy nhiên nó chẳng ảnh hưởng tí gì đến bất cứ người dân Việt bình thường nào ở hải ngoại, bằng chứng là hàng triệu lượt người vẫn về thăm quê nhà và đóng góp số tiền khổng lồ cho đất nước. Có thể nói hầu hết các nghệ sĩ hải ngoại có tiếng tăm đã chọn con đường trở về VN chấp nhận đối đầu với những chống đối du côn của băng đảng cờ vàng. Trước đây trên các sân khấu ca nhạc hải ngoại, muốn sống được họ bị buôc phải ca ngợi và phục tùng lá cờ vàng. Thời thế đã đổi thay, quê hương luôn có sức hấp dẫn kỳ diệu và băng nhóm cờ vàng đang trên đà suy thoái nghiêm trọng, khuynh hướng quay lưng lại với cờ vàng đang lan tỏa vô cùng mạnh mẽ, đó cũng là một trong những nguyên nhân tác động để HDH đủ sáng suốt từ bỏ lập trường cực đoan ngu xuẩn.

Tuy nhiên, HDH luôn cho rằng mình chuyển hướng “đấu tranh” ôn hòa và vẫn đứng về phía hàng ngũ quốc gia, vẫn giữ căn cước tị nạn và vẫn trung thành với cờ vàng.

Xưa nay cờ vàng vẫn kiên định lập trường không thỏa hiệp với CS, không hòa hợp hòa giải với CS và luôn giữ vững lằn ranh “quốc cộng”, lập trường của HDH không thể chấp nhận được. Cho nên dù HDH đi công vụ cho BU nhưng công vụ này “có lợi cho CS” việc HDH bị “CS mua chuộc” là điều có thể thấy trước. Lo sợ ấy của cờ vàng không thừa bởi vì hàng trăm ngàn người về VN đều bị mê hoặc bởi cội nguồn của mình, ở đó có người thân, ở đó có đồng bào nói cùng ngôn ngữ, ở đó có cuộc sống thanh bình có tình tự dân tộc, cuộc sống vươn lên khắp nơi thay đổi đầy kinh ngạc khác xa một trời một vực với những điều nói láo của cờ vàng.

Người CSVN có một loại vũ khí tấn công cờ vàng rất lợi hại là dùng tình tự dân tộc lòng yêu quê hương đồng bào để hòa giải hòa hợp dân tộc, huy động tài vật lực cho đất nước và có tác dụng cô lập cờ vàng. Chính vì thế cho nên cờ vàng mới cuống cả lên khi nghị quyết 36 ra đời. Đừng ngộ nhận rằng chính quyền VN chủ trương hòa giải dân tộc là hòa giải với cờ vàng. CSVN phân định rất rõ những người chưa hiểu về VN và những kẻ chống đối VN. Không hề có chủ trương hòa giải với kẻ có âm mưu lật đổ chính quyền như cờ vàng, nhất là cờ vàng chưa bao giờ là một thế lực khả dĩ nhà cầm quyền VN cần phải hòa giải. Sự hoang tưởng mình là một thế lực ở hải ngoại làm cho cờ vàng càng ngày càng u mê và càng đau đớn hơn khi càng ngày càng có thêm những người đồng hội đồng thuyền giũ áo quay lưng với mình.

HDH tự cho mình đang đấu tranh cho dân chủ ở VN. Nhưng đấu tranh cho dân chủ ở VN không nhất thiết phải “đứng trong hàng ngũ quốc gia” không nhất thiết phải cố nép sau lá cờ vàng. Việc màu mè dựng lá cờ vàng trong cuộc họp báo chứng tỏ HDH muốn bắt cá hai tay, những phát ngôn cho thấy HDH vừa muốn được lòng chính quyền trong nước nhưng mặt khác vẫn không muốn gây phật lòng cờ vàng. Tính toán của HDH là một sai lầm lớn. HDH tính toán rằng tự trói mình vào lá cờ vàng để yên thân, nhưng không những bị băng đảng này xem là đạo đức giả, mà cũng không thoát được sự tẩy chay. Cái mất lớn nhất là bị đồng hương hải ngoại và người dân trong nước nhìn mình bằng con mắt ngờ vực về cái tâm trong sáng.

Có cần phải lấy lòng cờ vàng không khi nó chống cộng chỉ vì lợi ích băng đảng vì hận thù triền miên? Không thể có lòng yêu nước trong một băng nhóm luôn kêu gọi tẩy chay lợi ích dân tộc và hí hửng cầu mong nước nhà bị xâm lăng dù viện dẫn bất cứ lý do gì. Có thể có lòng yêu nước trong băng nhóm bất cần lợi ích dân tộc miễn là làm khó được cho kẻ thù là nhà nhà cầm quyền hiện tại? Có thể có lòng yêu nước không trong cái băng nhóm xem BU là tối thượng sẵn sàng đứng sau lưng ngoại bang thậm chí là kẻ thù của dân tộc để phục hận cho dù phải đổ máu đồng bào?

HDH cho rằng việc chống cộng của cờ vàng hiện nay là vì lòng yêu nước là ngụy biện. Cờ vàng chỉ yêu cái nước VNCH yêu cuộc sống có BU bú mớm và tiếc thay cho nó yểu số, hận thay cho nó bị CS khai tử. Không thể tưởng tượng được có ai yêu nước mà cầu cho Tàu nó đánh VN để tiêu diệt CS cho cờ vàng rửa hận.

Còn nhớ năm 1979 khi tàu xua quân tấn công biên giới phia Bắc, băng đảng cờ vàng vui như mở hội, lập đàn cầu cho nó đánh Hà nội. Yêu nước như thế sao?

Có thể nói dù có muốn nhưng những người tùng hoạt động trong các băng nhóm cờ vàng phải dũng cảm lắm mới quyết định giũ bỏ nó mà không bị nó ám. HDH từng thanh minh rằng phải mang vợ về cùng vì sợ cờ vàng nó đồn là về VN để gái gú. Thật khổ cho cái nỗi ám mang tên cờ vàng. Thông cảm cho HDH nhưng cũng tiếc cho một con người có kiến thức nhưng yếm thế, thiếu quyết đoán và bản lãnh. HDH rất muốn gỡ ra khỏi cơ thể cái mớ bùng nhùng cờ vàng đã lỡ khoác trên người bao năm qua nhưng cứ loay hoay như gà mắc tóc và không biết phải bắt đầu như thế nào. Mới đây HDH biện hộ cho việc đặt lá cờ vàng trong cuộc họp báo rồi huênh hoang về ý nghĩa và giá trị của nó, ba hoa rằng chính thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng đứng dưới lá cờ vàng tại văn phòng nghị sĩ John McCain. Không biết HDH muốn truyền tải điều gì về sự tưởng tượng đó, thủ tướng Dũng chấp nhận lá cờ vàng chăng? Thật là quá ấu trĩ. (1) HDH không thoát khỏi căn bệnh cố hữu của cờ vàng là lấy những điều mà các thế hệ cờ vàng trước nói láo để dẫn chứng.(2) Xem ra một tiến sĩ luật được đào tạo tại Mỹ, được trang bị những xảo thuật chữ nghĩa để biện luận mà vẫn phải dùng ngón nghề nói láo ra để biện minh cho một sự kiện bố láo khác chứng tỏ rằng thoát ra khỏi cái u mê cờ vàng không phải dễ.

HDH đã về VN đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của đất nước mà có muốn nói láo cũng không thể được. HDH chứng kiến sự phát triển kỳ diệu của Đã Nẵng đến nỗi phải lập lại nhiều lần rằng đây sẽ là Singapor thứ hai ở Đông Nam Á. HDH được chứng kiến cơ sở chế biến rác của ông David Dương một trong vô số Việt kiều có đóng góp thiết thực cho đất nước và đồng bào. Những thực tế ấy chắc hẳn sẽ có tác động vào niềm tin của HDH rằng một nước VN hùng mạnh do đảng CSVN lãnh đạo sẽ là hiện thực rất gần. Một trí thức trẻ như HDH chắc chắn sẽ nhận ra điều đó. Đúng là quá muộn màng nhưng muộn còn hơn không.

Dù sao cũng đáng ghi nhận thiện chí của HDH với đất nước. Nếu bỏ qua những chi tiết hành động để lấy lòng cờ vàng vẫn có thể thấy ở HDH có cái tâm với đất nước và có cảm xúc với sự phát triển của quê hương, không còn thấy con người cực đoan trong HDH. Dù chuyến về thăm quê hương được sắp xếp theo một kịch bản được chuẩn bị trước thì kịch bản và diễn xuất khá hoàn hảo dù rằng áp lực sợ mất lòng cờ vàng làm cho HDH chưa bộc lộ hết nỗi lòng.

Đúng là là một nghị viên gốc việt sống trong hang ổ cờ vàng HDH đang gặp khó. Dân ta có câu “trong cái khó ló cái khôn” cái khôn ở đây không phải là toan tính sẽ lấy lòng cờ vàng kiểu nào mà ở chỗ quyết tâm giũ bỏ nó như thế nào. Giũ bỏ nó là giũ bỏ tư tưởng cực đoan vị kỷ, quên đi cái dĩ vãng hoàng kim khi còn có BU bảo trợ, giũ bỏ đi cái nỗi niềm canh cánh hận thù. Giũ bỏ nó là xa rời cái băng đảng bát nháo du côn đang khư khư bám vào cái “lằn ranh quốc cộng” để nuôi khát vọng trả thù.

Hãy can đảm lên để chấm dứt tham gia vào những trò lố bịch của cái sân khấu cờ vàng. Còn lá cờ vàng hãy cất nó vào tủ như một vật kỷ niệm, vì cho dù nó có được phất lên ở bất cứ nơi đâu, dù có vinh danh nó như thế nào , dù có gán cho nó bao danh xưng mỹ miều, dù bỏ bao công sức để vận động cho nó được công nhận nơi này nơi khác trên xứ BU thì nó vẫn chỉ là biểu tượng về sự hoài niệm của một thiểu số, không hề có tí giá trị nào để phải “chào” nó cả. Cả thế giới này đã nhìn nhận rằng nó đã chấm dứt vai trò của nó và đi vào lịch sử, không có quốc gia nào công nhận nó là “quốc kỳ” như dân cờ vàng xưng tụng. Đó là sự thật, nó chết đã 38 năm rồi.

(1) http://kbchn.net/news/Tin-nguoi-Viet-Hai-Ngoai/Hoang-Duy-hung-chuyen-can-khong-noi-noi-chuyen-khong-can-14685/
(2) http://kbchn.net/news/Tin-Quoc-Te/Co-tieu-bang-Arizona-da-bi-cong-dong-nguoi-Viet-nhin-ga-hoa-quoc-thanh-VNCH-14701/

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Ba 5, 2014 in Tham nhũng

 

Nhãn: , , , , , , , , , , , , ,

CHÚ TỄU VÀ LÀNG RỐI NƯỚC VIỆT TÂN

cxn

Trích dẫn nguồn: Đầu bếp cờ vàng và những món “hận”

Không ai có thể đếm hết được những đầu bếp chuyên chế biến thức ăn cho cờ vàng, nhưng thợ giỏi thì không nhiều, cùng món “Tham nhũng” nhưng mỗi anh chế biến một kiểu, có anh chế biến để hạp khẩu vị con chiên, có anh thêm nếm cho nó hạp cái vị cay cú cờ vàng và thế là đủ để ăn khách, cũng món này nhưng có anh bị tố trác, xào nấu nhạt nhẽo lại quá hưng phấn thêm nếm quá tay cho nên cứ thối um cả lên, mà ngay cả cờ vàng cực đoan thứ thiệt cũng không ngửi nổi và rồi cuối cùng thì quay ra cắn nhau – Vui đáo để!


Chú tễu là nhân vật chính trong màn rối nước, được đẽo gọt bằng gỗ , sơn phết màu sắc sặc sỡ. Các nghệ nhân điều khiển bằng dây đứng sau bức màn dưới một hồ nước .

Dùng nước làm sân khấu cho quân rối hoạt động là một đặc điểm độc đáo của nghệ thuật rối nước. Nước không chỉ là nơi nhân vật làm trò, đóng kịch mà còn là yếu tố cộng sinh, cộng hưởng, cộng minh. Mặt nước là sân khấu kết hợp với lửa như một tấm gương in hình bóng tương phản của các con rối. Nước vừa cản trở, vừa hỗ trợ, phối hợp, làm lung linh mềm mại, uyển chuyển làm biến hóa khôn lường màu sắc và hình khối của con rối. Trên “chiếc gương lỏng” này, những gì là khô cứng, nghèo nàn lại trở nên duyên dáng, phong phú, biến hoá một cách kỳ ảo. Nước giấu trong lòng mọi bí ẩn của trò rối. Nhân vật thoắt ẩn, thoắt hiện cùng với con bóng của mình điệp trùng trên sóng nước. Những tiếng trống, tiếng pháo “chói tai”…

Chú Tễu nhân vật chính của múa rối nước. Các nghệ nhân điều khiển tễu sau bức màn.

Màn trình diễn rối nước mà cứ cuối năm làng rối nước Việt Tân trình diễn mang tên VHRN là cái gì?

Lâu nay bà con ta thường nghe nhiều người hay nói vào dịp cuối năm giải VHRN thí sinh nào đoạt giải “Khôi nguyên” này. Xin thưa ngay đó là cái tên viết tắt từ cụm từ tiếng Anh của một tổ chức của làng truyền thống múa rối nước ”Rân Trủ ” Việt Tân phản động với danh xưng “Mạng lưới nhân quyền Việt Nam (Viet Nam Human Rights Network – VHRN). Giải này được lập ra tại Mỹ năm 1997 .

Giải khôi nguyên “Nhân quyền Việt Nam” là cái giải quái quỷ gì vậy?

Đỗ Hoàng Điềm ông bầu đoàn rối nước Việt Tân.

Đó là kịch bản của làng rối nước Việt Tân nhằm kích động những kẻ mù quáng ở trong nước can tâm để cho Việt Tân đẽo gọt, sơn phết thành những chú tễu, làm con rối cho những màn hài kịch rối nước mà các nghệ sĩ Việt Tân dật dây chống phá đất nước dưới vỏ bọc đấu tranh cho “rân trủ, rân quyền“, với sự hà hơi tiếp sức bố thí đô la của những kẻ thù hận đất nước, năm 2002 làng rối VT khởi đặt ra cái giải gọi là “Giải thưởng nhân quyền Việt Nam” kèm theo món tiền lót tay khoảng vài nghìn đô la để xúi giục, kích hoạt sự chống đối phá hoại Việt Nam từ trong nước. Qua theo dõi những màn trình diễn những năm qua, dân hải ngoại ta được biết, từ năm 2003 – 2009, làng rối nước này đã nhào nặn “tuyển chọn” ra 20 gương mặt tễu điển hình qua các màn thi đấu loại các thí sinh cạnh tranh nhau với đủ các mánh khoé ”Vô biên” để đoạt chút tiền còm và quan trọng làm sao được ra hải ngoại hành nghề.

Những chú tễu có tên như Hoàng Minh Chánh, Nguyễn Văn Đài, Thích Quảng Độ, Nguyễn Chính Kết, Nguyễn Khắc Toàn, Lê Thị Công Nhân.Cù huy hà Vũ… mà người dân Việt Nam chân chính trong và ngoài nước đều “nhẵn mặt” chúng – đó là những con rối diễn trò trên sân khấu chính trị theo kịch bản của các nghệ sĩ Việt Tân kiếm sống từ những đồng đô-la bố thí cho vai diễn, vai múa.

Để hợp thời trang và hợp gu làng rối nước Việt Tân cho ra những vở múa rối đúng mùa vụ, các diễn viên tễu cũng thay đổi vai liên tục cho ép phê câu khách. Giải ”Khôi nguyên” tễu được nấp dưới cái bóng “Ngày nhân quyền quốc tế” hằng năm 10/12 để theo đóm ăn tàn trao “Giải nhân quyền Việt Nam 2010″ cho những kẻ được phết lên nước sơn là những “khôi nguyên dân chủ quốc nội” quảng bá thanh thế, đánh bóng cho cái làng múa rối nước này ngõ hầu xin thêm của bố thí để kiếm sống.

Được sự hỗ trợ của làng rối nước Viêt Tân, các nhà truyền thông bất chính mở chiến dịch tô màu, bu vào ra rả loan tin cổ xúy, tâng bốc cho các sản phẩm tễu cho thêm phần ”Hoành tráng”. Ta thấy ví dụ một tễu điển hình đã được ra hải ngoại trình diễn là tễu Trần Khải Thanh Thủy vài tờ báo lá cải, “đài” phát thanh tiếng Việt trong cộng đồng người Việt ở Mỹ, lu loa thì “nhà văn” Trần Khải Thanh Thủy, “mục sư” Nguyễn Công Chính, mỗi người giành “một bản tuyên dương”, kèm theo món tiền cũng khá, đâu như những 3.000 đôla gì đó! Trần Khải Thanh Thủy Thực ra, độc giả trong và ngoài nước chẳng ai lạ gì “nhà zăn” Trần Khải Thanh Thủy, vốn đã quá “nổi tiếng” vì những trò ranh ma chuyên lợi dụng “rân trủ” ăn tiền nhằm chống phá Việt Nam theo “kịch bản” của làng rối nướcViệt Tân. Cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã “trìu mến” đặt cho Trần Khải Thanh Thủy biệt danh là ”Trần Khải Ma Quỷ“. Trần Khải Thanh Thủy đã từng bị khởi tố, bắt tạm giam về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” .

Theo “kịch bản” các nghệ sĩ làng múa rối Việt Tân tung hô, đánh bóng, những chú tễu đã và đang ăn ”cơm cân”, ngồi xé lịch trong các trại ”an dưỡng” như Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Ls Cù Huy Hà Vũ, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung v.v… được phong các ”Ranh hiệu” nghe ”ngất ngây” lòng khán giả. Sự đỉnh điểm mà hề rối này được phong những danh hiệu nghe nổ trời, Trần Khải Thanh Thủy, Lê Thị Công Nhân so sánh với người phụ nữ đã đoạt giải Nobel Hòa Bình ở Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi…

Các nhà tễu ”Rân trủ“

Để cho màn trình diễn cho thêm phần xôm tụ làng rối nước Việt Tân sẽ rủ thêm mấy nhóm chống cộng cực đoan, cực hận như “Ủy ban cứu nguy người vượt biển”, “Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam”, “Yểm trợ cao trào nhân bản” cùng bảo trợ tiền bạc cho việc “trao giải”. Gần đây, nhất là sau sự kiện khủng bố kinh thiên động địa ngày 11-9-2001 ở Mỹ, nhận thấy phương thức vũ trang, khủng bố, bạo loạn lật đổ mà các nhóm phản động lưu vong người Việt như Việt Tân, “Chính phủ Việt Nam tự do”… sử dụng trước đó đã thất bại và bị dư luận quốc tế lên án, nên làng rối nước Viêt Tân điều chỉnh phương thức nhằm gia tăng lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”. Song cũng giống như số phận của các nhóm hải ngoại, chiêu thức chống, phá Việt Nam của làng rối, làng nghề đã lỗi thời và không thể lừa mị mọi người. Chẳng vậy mà, những “thư thỉnh cầu” gửi Tổng thống Mỹ Obama nhằm vận động đưa Việt Nam vào danh sách “Các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo” (Countries of Particular Concern – viết tắt là CPC), hoặc vận động Hạ viện Mỹ thông qua “Dự luật nhân quyền cho Việt Nam” mà họ khởi xướng đều bị bác bỏ.

Nhiều vị dân biểu, nghị sĩ Mỹ coi đó là trò nhảm nhí, gây phương hại quan hệ Việt – Mỹ đang trên đà thăng tiến. Dưới con mắt của người Việt yêu nước ở Mỹ thì đây rõ là thói “cõng rắn cắn gà nhà” của những kẻ mù quáng. Bởi vì rõ ràng trong buổi nói chuyện với cộng đồng người Việt tại quận Cam, bang California nhân chuyến về nước, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam nhiệm kỳ trước – Michael Michalak đã khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng: “Muốn đặt một quốc gia vào danh sách CPC đòi hỏi nhiều điều kiện. Tôi không thấy chúng ta có lợi ích gì trong việc đưa Việt Nam trở lại danh sách này”. Và thực tế, “báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế 2009” của Bộ Ngoại giao Mỹ vừa công bố đã không đưa Việt Nam vào “Danh sách CPC”.

Vậy là màn rối trao giải “Nhân quyền khôi nguyên 2010″ cả hai con rối này hiện đều đang ngồi bóc lịch trong nhà tù vì tội phản nghịch chống phá đất nước. Thế mới càng rõ cái kịch bản mà tổ chức ma quỷ này dàn dựng để trình diễn như ”Đến hẹn lại lên” vào cuối mỗi năm – chỉ là một kịch bản lố bịch nhố nhăng, vụng về, một trò hề trâng tráo, trơ trẽn không ngoài ý đồ đen tối nào khác là kích động, xúi giục những con rối trong tay làng rối nước Việt Tân chống đối trong nước ra sức chống phá tổ quốc.

Houston 3-25-2012
Amari tx

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Hai 24, 2014 in Nhà nước VNCS

 

Nhãn: , , , , , , , , , , , ,

AI BỨC TỬ CỜ VÀNG ?

cxn

Ngồi ghế xa lông, đọc báo mạng, tìm những tin tức nào hợp khẩu vị dân cờ vàng, xào nấu lại, đặt cho nó một cái tên, thế là xong, đó chính là công việc hàng ngày của những anh đầu bếp chống cộng cờ vàng, công việc này vừa giúp cho các anh xả xú bắp hận thù vừa có tiền bỏ túi, vừa được tiếng dấn thân làm chính trị lại vừa được tiếng “phục vụ cộng đồng”.

Xichloviet


Kể từ khi chế độ VNCH sụp đổ chúng ta thường nghe rất nhiều đến cụm từ “VHCH bị bức tử” mà dân cờ vàng luôn than vãn. Bị bức tử có nghĩa là bị buộc phải chết. Ai buộc? Họ không nói ra nhưng ai cũng có thể hiểu họ ám chỉ Mỹ. Thế nhưng họ không bao giờ tỏ ra hận Mỹ và luôn trút sự hận thù này cho CS.

Dân chống cộng cờ vàng nói như thế để chống chế và khỏa lấp rằng họ không hèn nhát, không phải họ không biết chiến đấu, không phải vì họ yếu kém phải bỏ chạy mà bị cưỡng bức phải thua, chứ họ vẫn anh hùng lắm. Mỹ đã “bức” họ phải “tử” chứ CS không thể làm họ tử được.

Võ Long Triều một bộ trưởng, một dân biểu trong chế độ VNCH, trong một bài viết đăng trên báo Người Việt mới đây lại không dùng từ này mà đặt câu hỏi “Ai bán VNCH cho cộng sản Hà Nội” rồi kết luận là bu Mỹ và Hà Nội đã thương lượng nhau để “bán” cái anh VNCH này. Võ Long Triều đặt câu hỏi như thế đã tự thú nhận VNCH là chỉ là một thứ đồ chơi hay chỉ là con cún của Mỹ cho nên bu muốn bán lúc nào thì bán muốn bán cho ai cũng được. Bị bán một cách tức tưởi.

Lúc thì Võ Long Triều nói Mỹ đi đêm với Tàu để dâng miền Nam VN:

Được trả tự do năm 1988 tôi có dịp đọc hồi ký của Ngoại Trưởng Mỹ thời đó là ông Henry Kissinger mới biết rõ, chính ông ta dâng miền Nam Việt Nam cho Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai .”

Lúc thì nói Mỹ thương lượng với Hà Nội để bán đứng VNCH :

Và sự kiện chứng minh rõ ràng nhứt, Kissinger và Tướng Haig tự ý thương lượng với Bắc Việt mà không hề hỏi ý kiến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong khi cả thế giới hiểu rằng sự đàm phán phải do hai bên Nam, Bắc Việt thương lượng điều kiện để tiến tới hòa bình. Hội đàm Paris chỉ là một màn kịch do Hoa Kỳ đạo diễn để trao Việt Nam Cộng Hòa vào tay cộng sản Hà Nội., “

Võ Long Triều , một bộ trưởng, một dân biểu cờ vàng còn nhận định và than thân trách phận thú nhận rằng Mỹ đã đem VNCH rao bán như bán mớ rau con cá thì các anh cờ vàng nghĩ sao? Một chế độ mà Mỹ muốn bán cho ai cũng được, muốn nó chết là nó phải chết không thể cưỡng lại thế mà cũng xưng danh là một “quốc gia” có chính nghĩa được sao? Hễ cứ ai nói rằng các anh là tay sai, là nô lệ thì các anh nhảy dựng lên mà phản bác. Các anh luôn tuyên truyền cho dân cái ảo tưởng các anh là đồng minh của Mỹ cho nó sang, đồng minh nào mà có quyền rao bán, bức tử các anh được như thế?

Báo chí và tâm lý chiến cờ vàng luôn nâng tầm quan trọng của VNCH lên hàng “đồng minh” của Mỹ và nổ rằng là VNCH là tiền đồn (của Mỹ) chống cộng số một ở Đông Nam Á cho nên Mỹ không thể xem nhẹ. Đồng minh của Mỹ nhưng chưa bao giờ tổng thống của VNCH được đón tiếp bằng nghi lễ xứng tầm đồng minh, chẳng bao giờ được phép bước chân vào nhà trắng .

VNCH đã chết rồi, dù có than thân trách phận rằng bị bức tử, bị bán, hay bị bỏ rơi thì cũng thế thôi. Nói một cách cụ thể và hình tượng thì VNCH chỉ là một thứ công cụ sử dụng cho lợi ích của Mỹ, không dùng được nữa thì vứt nó đi, sự thật đã quá rõ.

Cố thanh minh về việc phải cởi quần mà chạy nhằm giấu đi cái hèn cái nhục họ lại càng làm lòi cái bản chất nô lệ ra . Cái bản chất nô lệ đã được Nguyễn Văn Thiệu tổng thống VNCH thừa nhận công khai rằng Mỹ cho bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu.. Thế cho nên cái kết cục phải cởi quần chen nhau mà chạy chính là hệ quả của thân phận bầy tôi nô lệ.

Ngay sau khi thất thủ Ban Mê Thuột, quốc hội Mỹ đã bác quân viện bổ sung 300 triệu đô la cho VNCH do tổng thống Mỹ đề nghị. Số phận chế độ VNCH đã được định đoạt và đã gõ hồi chuông báo tử cho chế độ này. Không có tiền đồng nghĩa với đói và chết. Đây là cú sốc rất lớn cho Nguyễn Văn Thiệu và cũng từ đó Nguyễn Văn Thiệu trở nên hoảng loạn đi đến quyết định co cụm, liệu cơm gắp mắm, sống ngày nào hay ngày ấy là “rút lui chiến thuật, tái phối trí lực lượng” phổ biến trong cuộc họp tướng lãnh tại Cam Ranh ngày 14.3.1975.

VNCH phải chết khi kẻ nuôi dưỡng nó chết, chẳng phải ai bức tử nó, chẳng ai bán nó,cũng không phải bu nó ghét bỏ gì nó rồi bỏ rơi nó, mà là bu nó chết rồi dìm nó chết theo. Cả hai bu con đều bị bức tử dưới sức mạnh của toàn dân VN.

Bức tử, bị bỏ rơi, bị phản bội, bị bán đứng, là lời than vãn mà cờ vàng thường trách bu. Họ không thể đủ sáng suốt để nhận ra rằng bu không bao giờ muốn họ tử. Tiền bu đâu phải tiền trên trời rơi xuống mà là tiền của dân Mỹ, bỏ bao nhiêu tiền của kể cả sinh mạng của mình để nuôi dạy nó mà nó lăn ra tử thì bu ăn nói thế nào với dân Mỹ đây ? Cho nên bu luôn muốn nó là một tay sai thực sự mạnh để giúp bu bớt gánh nặng. Nhưng lực bất tòng tâm, bu không thể cứu lấy nó được, bu chỉ cố cứu lấy mình cứu lấy cái danh dự nước Mỹ.

Người bức tử chế độ cờ vàng chính là nhân dân VN, Sức mạnh chiến đấu từ lòng yêu nước của nhân dân VN đã bức tử cả hai bu con, bức tử cả những tướng lãnh mà họ đang tôn vinh là anh hùng.

Cái khác biệt lớn giữa bu con VNCH là bu nó thì thừa nhận đã thua phải bỏ của chạy lấy người chỉ mong CS nới tay để bu nó gỡ gạc được chút sĩ diện. Còn nó thì dù nó có bị đối phương tuột quần banh xà rông nó vẫn bảo nó không thua, nó bị “bức tử”, nó bị “cưỡng chiếm” , nó bị phản bội, nó bị bán. Nó vẫn anh hùng nó vẫn còn quốc gia, nó vẫn còn lá cờ vàng, nó vẫn còn “quân lực”. Không phải nó nói chơi cho vui mà nó thực sự nghĩ như thế, đó mới là điều quái kỳ đời.

Thế giới này đang hiện diện một “quân lực” không hề đụng hàng từ Đông chí Tây từ cổ chí kim. Quân thì không ai dưới 60 tuổi, lực thì là súng nhựa đeo lủng lẳng cầm cờ vàng xếp hàng diễu binh, Xe thì xe lac xon chạy vòng vòng để “biểu dương lực lượng” cho Mỹ nó coi mỗi lần đến “ngày quân lực”. Đó chính là “quân lực “ VNCH.

“Quân lực” VNCH đang biểu diễn trên đường phố Mỹ

“Quân lực” này đang thờ 5 vị “anh hùng vị quốc vong thân” toàn là những anh hùng chết trong nhà, nếu không phải tự tử thì cũng bị tử hình chẳng có ai hy sinh vì ra sức chiến đấu bảo vệ cho lá cờ vàng.

Ta hãy điểm sơ qua những anh hùng của họ “vị quốc vong thân” như thế nào.

Phạm Văn Phú :

Phạm văn Phú là Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân đoàn 2. Những tính toán sai lầm của Phú đi đến kết cuộc mất Ban Mê Thuột. Sốc, uất ức vì bị Nguyễn Văn thiệu đổ hết trách nhiệm trong việc thất thủ Tây Nguyên cùng với việc bị thất sủng, phải bàn giao quân đoàn 2 của Phú sáp nhập vào quân đoàn 3. Ngày 2.4.1975 trong lúc chờ bàn giao quân đoàn 2 cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu tư lệnh phó quân đoàn 3, Phú đã rút súng tự sát tại Lầu Ông Hoàng ở Phan Thiết nhưng bị cản lại. Bị tước quyền, Phú rất đau và căm, cho rằng Phú bị coi thường và bị sỉ nhục. Không chịu nổi những áp lực và thấy trước cái chết của chế độ cờ vàng Phú uống thuốc độc chết 28 ngày sau đó.

Như vậy người “bức tử” Phạm Văn phú chính là Nguyễn Văn thiệu. Phú không hề “vị quốc vong thân” mà tự tử vì quá phẫn uất và thất vọng.

Trong bài bút ký” Những bí mật về trận thất thủ Ban Mê Thuột” Lữ Giang đã viết theo lời kể của Đại Tá Phạm Duy Khang rằng sau khi đại tá Luật tỉnh trưởng Ban Mê Thuột bị bắt, vợ Phạm Văn Phú đã cử Thiếu Tá Phạm Huấn đến gặp đại tá Phạm Duy Khang (người được tướng Phú dự định thay thế đại tá Luật) cho biết rằng muốn làm tỉnh trưởng Ban Mê Thuột phải cam kết rằng sẽ chia cho bà Phú 20% số tiền tái thiết. Cuộc thương lượng không thành chức tỉnh trưởng Ban Mê Thuột được giao ngay cho Đại Tá Trịnh Tiếu.

Bà vợ ông tướng mà có thể quyết định được việc bổ nhiệm một tỉnh trưởng. Chi tiết trên cho thấy anh tướng này này chẳng thể nào “vị quốc cờ vàng” cho được

Lê Nguyên Vỹ:

Lê Nguyên Vỹ là chuẩn tướng tư lệnh sư đoàn 5 bộ binh. Sau khi nghe lệnh đầu hàng từ Dương Văn Minh, ngoài kia đối phương bao vây căn cứ Lai Khê khóa chặt hai cổng phía Nam và phía Bắc, bắc loa phát lời Dương Văn Minh kêu gọi buông súng và kêu gọi tướng Vỹ đầu hàng dồn dập, Lê Nguyên Vỹ hoảng hốt ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ rồi rút sứng tự tử.

Treo cờ trắng đầu hàng nhưng vẫn là anh hùng cờ vàng như thường chỉ vì dám anh dũng tự tử. Sở dĩ Vỹ tự tử vì Vỹ không còn chạy đi đâu được, Tâm lý chiến cờ vàng đã gieo vào đầu vị tướng này cái thảm họa ghê gớm nếu lọt vào tay CS nhất là đối với một vị tướng tư lệnh như Vỹ. Tự tử là cách lựa chọn để tránh sự trừng phạt.

Lê Văn Hưng:

Hưng thực sự nổi lên dưới mắt Nguyễn Văn Thiệu từ năm 1972 với thành tích tử thủ An Lộc và được vinh thăng chuẩn tướng. Trận này Hưng cũng được đối phương mổ xẻ rất nhiều. Năm 1974 Hưng được bổ nhiệm làm tư lệnh phó quân đoàn 4 và vùng 4 chiến thuật. Ngay khi nhậm chức Hưng đã tung ra những cuộc hành quân tảo thanh càn quét gây tổn thất lớn choViệt cộng. Tháng 2.1975 Hưng mở chiến dịch lớn tấn công mật khu U Minh của đối phương bằng tất cả những gì có trong tay và vũ khí đạn dược còn lại. Là một chỉ huy quân đoàn nhưng Hưng lại không thể biết được những toan tính ở cấp trung ương, không biết được tình hình chiến sự các nơi khác và không biết SaiGon đang hấp hối. Cho nên đến ngày 29.4.75 Hưng rất ngỡ ngàng khi những sĩ quan cao cấp không quân hải quân lần lượt đào ngũ bỏ chạy. Là một con chiên có thâm thù với CS, Hưng toan tính tập họp tàn quân để cố thủ nhưng quân lính đã tan hàng. Thất vọng, quẫn trí và lo sợ sẽ bị cách mạng trừng phạt Hưng đã tự tử tại tư dinh.

Nguyễn Khoa Nam:

Nguyễn Khoa Nam là Thiếu Tướng tư lệnh quân đoàn 4 và vùng 4 chiến thuật. Sau khi nghe tin Hưng đã tự tử Nguyễn Khoa Nam cũng tự tử.

Cả Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng đều tự tử bằng súng ngày 30.4.1975. Sự tấn công vũ bão của quân giải phóng khiến chính quyền Sai Gon náo loạn nhưng miền Tây vẫn yên tĩnh. Đã có lúc nhiều chính khách đã có ý chọn Cần Thơ làm thủ phủ để cố thủ giữ vùng 4 chiến thuật. Nhưng Sai gon sụp đổ và quân đội VNCH tan rã quá nhanh làm cho những tướng lãnh dù có ý định chống lại cũng không thể làm gì được. Đó là số phận của Lê Văn Hưng và Nguyễn Khoa Nam. Việc tự tử của các tướng Hưng và Nam hệ quả của sự bế tắc hoảng loạn và lo sợ.

Hồ Ngọc Cẩn:

Hồ Ngọc Cẩn là Đại Tá tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện. Tỉnh Chương Thiện được lập ra từ thời Ngô Đình Diệm nhằm bảo vệ Cần Thơ và vùng 4 chiến thuật đồng thời kiểm soát cửa ngõ U Minh. Sau khi hiệp định Paris ký kết Chương Thiện là điểm nóng nhất của vùng 4 chiến thuật bởi kế hoạch giành dân chiếm đất, tràn ngập lãnh thổ của Nguyễn Văn Thiệu. Ngay sau khi Hiệp định Paris bắt đầu có hiệu lực (28/1/1973) Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố: “Không thi hành Hiệp định Paris – không hòa bình – chống hòa hợp với cộng sản.” Thiệu ra lệnh cho quân đội tiếp tục đánh tới, lấn đất giành dân cắm cờ cùng khắp – tràn ngập lãnh thổ. “Nếu Việt cộng dùng súng lục thì Quốc gia trả lời bằng súng cối, súng đại bác“.

Ngày 2/2/1973, Bộ Tư lệnh vùng 4 chiến thuật và Quân khu 4 triệu tập các sĩ quan chủ chốt và chính quyền các cấp phổ biến ý kiến Nguyễn Văn Thiệu về Hiệp định Paris và tuyên bố:

“Trên hòa bình – dưới chiến tranh, xử bắn người nào hoan hô hòa bình, xử bắn lính trốn, bỏ tù những gia đình binh sĩ có con em bỏ trốn, buộc nhà dân phải treo cờ quốc gia trước nhà, trên ghe xuồng, sơn cờ trên mái nhà, rồi mời ủy ban quốc tế đến xem và xác nhận cho vùng kiểm soát của VNCH. “

Hồ Ngọc Cẩn đóng vai trò rất lớn trong việc bình định, giành dân lấn đất của Nguyễn Văn Thiệu và do đó gây ra rất nhiều nợ máu. Ngày 30.4.75 trong khi mọi nơi đã buông súng, Cẩn không lường hết được tình hình và sức lực mà vẫn ra lệnh chống trả. Kết cục là Cẩn bị bắt sống và bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ.

Cái chết của Cẩn là một sự đền tội. Các sĩ quan khác cao cấp hơn Cẩn rất nhiều nhưng vẫn không ai lĩnh án như Cẩn điều này cho thấy Cẩn đã gây quá nhiều tội ác. Quân và dân vùng Chương Thiện không ai không biết đến tội ác của viên tỉnh trưởng khét tiếng này, có kế hoạch trừ khử Cẩn từ lâu nhưng không thành công phải chờ đến trận đánh cuối cùng.

Cái chết của Cẩn được biến hóa thành anh hùng vị quốc vong thân của cờ vàng và được phát tán rộng rãi bởi tấm hình Cẩn bị xử bắn. Đây là tấm tình được sao chép và sửa chữa lại từ bộ phim “Cọp Rằn Chương Thiện”sản xuất ở hải ngoại do Trần Hùng đóng vai Hồ Ngọc Cẩn và Mỹ Huyền đóng vai du kích Việt Cộng

Tấm hình Cẩn bị xử bắn được phát tán rộng rãi trong cộng đồng cờ vàng nhưng không bao giờ ghi xuất xứ khiến nó trở thành một hình ảnh thực trong suy nghĩ của cộng đồng cờ vàng. Hơn nữa họ còn gắn vào mồm Hồ Ngọc cẩn những câu nói đầy khí khái cờ vàng làm cho tên tuổi của Cẩn trở thành anh hùng của VNCH.

“Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không hạ nhục các anh như các anh bôi lọ tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Các Anh Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Không cần phải bịt mắt.và hô to” Đả đảo cộng sản. Việt Nam Cộng Hòa muôn năm”

Nhìn tấm hình anh cán binh CS cấm súng chĩa vào đầu Hồ Ngọc Cẩn nếu tinh ý một chút thôi cũng có thể nhận ra đây không phải cảnh ở sân vận động nơi Cẩn thi hành án. Anh cán binh CS quấn khăn rằn, đầu chải chuốt bóng mượt lại cầm cây colt 45 của VNCH để xử bắn là điều không thực tế và rất khôi hài. Tấm hình thứ hai là hình màu được chụp góc thấp, chụp cận cảnh không thể là khoảnh khắc thời sự và cũng không thể có được vì năm 1975 chưa có phim màu ở VN. Không có ai có thể đến gần cầm máy chụp ở góc và cự li ấy trong lúc đang hành quyết.

Moi những tướng lãnh tự tử ra rồi tô vẽ tôn làm anh hùng, thậm chí còn làm giả những tấm hình để gây xúc động, dân cờ vàng muốn cho mọi người thấy rằng cờ vàng cũng có lý tưởng như ai, cờ vàng cũng có người coi thường cái chết dám hy sinh cho cờ vàng.

Một “quốc gia” mà còn tiền thì đánh hết tiền thì chạy, một chính quyền mà Mỹ muốn chết là phải chết, Một chế độ mà tổng thống của nó có thể bị trừ khử bất cứ lúc nào nếu không làm hài lòng người Mỹ. Một quân đội mà chức tỉnh trưởng có thể mua được từ một người đàn bà, như thế mà dân cờ vàng cứ lấy đó làm khuôn mẫu để chiêu dụ người dân và rao giảng về tự do dân chủ mãi cho đến tận hôm nay.

Nếu muốn sử dụng từ “bức tử” cho nó đúng với thực tế thì phải nói rằng sức mạnh được hun đúc từ lòng yêu nước và khát khao độc lập của dân tộc ta đã bức tử cái chế độ nô lệ cờ vàng. Chính sức mạnh này đã buộc đế quốc Mỹ phải tháo chạy theo đúng nghĩa, giành lại nền độc lập cho đất nước, thống nhất được tổ quốc, nối liền bờ cõi VN, non sông của tổ tiên để lại mà dân cờ vàng luôn mong muốn nó chia cắt mãi mãi..

Xichloviet

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Hai 20, 2014 in Xã hội

 

Nhãn: , , , , , , , , , , , , ,

Lê Quốc Quân: nhà dân chủ “made in CIA”

cxn

Xichloviet

Đọc thêm: VÀI SỰ THẬT GỬI LUẬT SƯ TRỐN THUẾ – LÊ QUỐC QUÂN

Không ai có thể đếm hết được những đầu bếp chuyên chế biến thức ăn cho cờ vàng, nhưng thợ giỏi thì không nhiều, cùng món “Lê Quốc Quân” nhưng mỗi anh chế biến một kiểu, có anh chế biến để hạp khẩu vị con chiên, có anh thêm nếm cho nó hạp cái vị cay cú cờ vàng và thế là đủ để ăn khách, cũng món này nhưng có anh bị tổ trác, xào nấu nhạt nhẽo lại quá hưng phấn thêm nếm quá tay bởi vậy cứ thối um cả lên, mà ngay cả cờ vàng cực đoan thứ thiệt cũng không ngửi nổi.


Vụ xét xử Lê Quốc Quân vốn đang “nóng bỏng” mấy ngày gần đây tạm thời xẹp xuống sau khi có thông báo của Tòa Án nhân dân thành phố Hà Nội về việc tạm hoãn phiên xử. Lý do tòa án đưa ra là thẩm phán Lê Thị Hợp, chủ tọa phiên tòa, bị cảm đột xuất, phải đi cấp cứu. Đây cũng có thể là một “biện pháp kỹ thuật” của tòa án Hà Nội, nhằm làm giảm sự “hưng phấn” đang dâng cao của những kẻ đội lốt tôn giáo, kích động chính trị nhân vụ xét xử này. Trong lúc chờ vụ việc về con chiên Lê Quốc Quân tái khởi động lại, mời các bạn tìm hiểu về bản chất của những thế lực đứng đằng sau Lê Quốc Quân qua bài viết dưới đây của GS Trần Chung Ngọc. Bài này được GS viết nhân sự kiện Lê Quốc Quân bị bắt lần đầu (2007) nhưng chắc chắn đó vẫn chính là nguyên nhân (ẩn) của việc Lê Quốc Quân bị bắt những lần sau này (dù phiên xét xử tới đây cho tội trốn thuế của Quân).

Chi tiết: http://www.doi-mat.vn/2013/07/le-quoc-quan-nha-dan-chu-made-in-cia.html#ixzz2gVqRxETt
Doi-Mat.vn
Follow us: doimat.cuanhcuem.net on Facebook

Quyết Thắng (st)

 

Nhãn: , , , , ,